Bai Tap Tuan Thang Hoc Ky K46 Pagenumber
Bai Tap Tuan Thang Hoc Ky K46 Pagenumber
HỒ CHÍ MINH
Yêu cầu tại buổi thảo luận. Với mục đích là sinh viên phải có kỹ năng tự nghiên cứu nên, trước
khi bắt đầu buổi thảo luận, sinh viên phải nộp cho giảng viên kết quả làm việc ở nhà theo những
chủ đề đã được gợi ý.
Với mục đích là sinh viên phải có kỹ năng thuyết trình một vấn đề pháp lý và phát triển
tư duy phản biện nên trong buổi thảo luận sẽ có sinh viên (hay nhóm sinh viên) trình bày kết quả
đã chuẩn bị, sinh viên khác phản biện và giảng viên kết luận.
Lưu ý. Trong tập tài liệu phục vụ thảo luận chỉ có những bản án, quyết định, công văn của Tòa
án. Đối với những tài liệu khác như văn bản, án lệ, các bài viết liên quan, sinh viên tự tìm để
nghiên cứu và đọc trước khi tham gia buổi thảo luận.
Đối với bài viết, sinh viên tham khảo thêm danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối của
Giáo trình, Sách tình huống.
Đối với các video trên Youtube của Khoa Luật dân sự, đề cương thường dẫn đến video
đầu của mỗi mục (như Nghĩa vụ, Hợp đồng, Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ...). Để xem video
tương ứng cho từng chủ đề, sinh viên xem các video tiếp theo của mỗi mục.
“Hiểu càng sâu nhớ càng lâu”
************
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến nghĩa vụ dân sự;
- Sinh viên làm quen và phát huy làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận thứ nhất
được tiến hành theo bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một nhóm trình bày
bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định của Tòa án, nhất là
đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.
Nghiên cứu:
- Khoản 3 Điều 275, Điều 574 đến Điều 578 BLDS 2015 (khoản 3 Điều 281,
Điều 594 đến 598 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu có);
- Tình huống: Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một
công trình công cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà
không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A
trong khi đó, theo quy định, B không được tự ký hợp đồng với C vì đây là công
việc của chủ đầu tư A (thực tế Ban quản lý dự án B không có nhiều tài sản để
thanh toán cho C).
Đọc:
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 1;
- Lê Minh Hùng, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 1;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 278 và 279; tr. 511 và 512;
- Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2020 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 9-11;
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Và cho biết:
- Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
- Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
- Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
công việc không có ủy quyền".
- Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền"
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
- Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể
yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế
định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì
sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Và cho biết:
- Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào?
Qua trung gian là tài sản gì?
- Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền
cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì
sao?
- Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
- Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu
một tiền lệ (nếu có)?
Nghiên cứu:
- Điều 370 và Điều 371 BLDS 2015 (Điều 315, 316, 317 BLDS 2005) và các
quy định liên quan (nếu có);
- Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Châu
Đốc, tỉnh An Giang.
Đọc:
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 1;
- Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2020 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 61-64;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=4YepPrCIlvU&list=PLy3fk_j5LJA4xqs1oy1oSSJiE5fPovU9g
Và cho biết:
- Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
- Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú?
- Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
- Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.
- Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
- Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
- Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có
chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
5
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Buổi thảo luận thứ hai: Vấn đề chung của hợp đồng
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà
***************************
- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến hợp đồng dân sự;
- Sinh viên làm quen và phát huy làm việc nhóm. Do đó bài tập của buổi thảo luận
thứ hai được tiến hành theo bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách (vào đầu buổi thảo luận) một bản để giảng
viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một nhóm trình bày
bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật và giải quyết một số vấn đề
pháp lý khi văn bản không đầy đủ, không hoàn thiện hoặc có sự khác nhau giữa
văn bản và thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định của Tòa án, nhất là
đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.
Nghiên cứu:
- Điều 394, Điều 400 BLDS 2015 và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Tình huống: Tháng 1 năm 2018, A (pháp nhân), B (cá nhân) và C (cá nhân) gửi
cho D một đề nghị giao kết hợp đồng (là điều khoản về phương thức giải quyết tranh
chấp, bằng văn bản và có chữ ký của cả 3 chủ thể). Tháng 1 năm 2020 và tháng 2 năm
2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của mình nhưng D
không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho C (C không
thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D).
Sau đó, các bên có tranh chấp về sự tồn tại của Hợp đồng (thỏa thuận về giải quyết
tranh chấp) và Tòa án đã xét rằng: (1) bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng theo quy định của Điều 400 BLDS 2015; (2) chấp nhận chưa được
thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của Điều 394 BLDS 2015 và (3) chấp nhận
trên của D là đề nghị giao kết mới.
Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 2;
6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 26-28;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
Và cho biết: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên.
Vấn đề 2: Sự ưng thuận trong quá trình giao kết hợp đồng
Nghiên cứu:
- Điều 393, Điều 396 BLDS 2015 (Điều 404 BLDS 2005) và các quy định liên
quan khác (nếu có);
- Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao;
- Tình huống: Năm 2001, bà Chu và ông Bùi chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của hộ (gồm 7 nhân khẩu) cho ông Văn. Năm 2004, ông Văn đã xây dựng
chuồng trại trên đất chuyển nhượng, các bên làm thủ tục chuyển nhượng để
ông Văn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và gia đình bà Chu, ông
Bùi không ai có ý kiến gì. Tuy nhiên, nay các con bà Chu và ông Bùi yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng vô hiệu vì chưa có sự đồng ý của họ
và Tòa án đã áp dụng Án lệ số 04/2016/AL.
Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 2;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 19-
20bis;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
Và cho biết:
- Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao
kết hợp đồng?
- Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp trong một hệ thống pháp
luật nước ngoài.
- Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?
7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Vấn đề 3: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được
Nghiên cứu:
- Điều 408 BLDS 2015 (Điều 411 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu
có);
- Bản án số 609/2020/DS-PT ngày 12/11/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
TP. Hồ Chí Minh.
Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 2;
- Lê Thị Hồng Vân, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 13;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 97-100;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
Và cho biết:
- Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và
BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu;
- Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
- Trong vụ án trên, đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng
vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được?
- Trong vụ án trên, Toà án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể
thực hiện được có thuyết phục không? Vì sao?
Vấn đề 4: Xác lập hợp đồng có giả tạo và nhằm tẩu tán tài sản
Nghiên cứu:
- Điều 124 BLDS 2015 (Điều 129 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu
có);
- Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Toà án nhân dân TP. Thủ Dầu
Một tỉnh Bình Dương;
- Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
8
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 2;
- Nguyễn Nhật Thanh, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 6;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 86-88
và 89-92;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
Và cho biết:
9
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Việc khai thác tài liệu chỉ được tính điểm khi được trích dẫn ít nhất một lần trong
nội dung của bài tập.
10
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Buổi thảo luận thứ ba: Vấn đề chung của hợp đồng (tiếp)
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà
***************************
- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến hợp đồng dân sự;
- Sinh viên làm quen và phát huy làm việc nhóm. Do đó bài tập của buổi thảo luận
thứ ba được tiến hành theo bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách (vào đầu buổi thảo luận) một bản để giảng
viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một nhóm trình bày
bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật và giải quyết một số vấn đề
pháp lý khi văn bản không đầy đủ, không hoàn thiện hoặc có sự khác nhau giữa
văn bản và thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định của Tòa án, nhất là
đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ;
- Rèn luyện kỹ năng tìm kiếm tài liệu liên quan đến một chủ đề. Do đó, so với bài
tập trước, trong bài tập lần này sinh viên phải tìm kiếm tài liệu theo yêu cầu của đề
cương.
Nghiên cứu:
- Điều 117, Điều 119, Điều 129, Điều 132 và Điều 688 BLDS 2015 (Điều 122,
Điều 136, Điều 401 BLDS 2005) và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Nghãi;
- Quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
Đọc:
- Lê Minh Hùng (chủ biên), Hình thức của hợp đồng, Nxb. Hồng Đức 2015;
- Lê Thị Hồng Vân, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 11 và
12;
11
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 114-
116, 148-150.
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
Và cho biết:
- Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được
công chứng, chứng thực?
- Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS
2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày
BLDS năm 2015 có hiệu lực?
- Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có
thuyết phục không? Vì sao?
- Trong Bản án số 16, Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định
Nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ có thuyết phục không? Vì sao?
- Trong Bản án số 16, đoạn nào cho thấy, khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên bán
không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng được
liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng
đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật?
- Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao?
- Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?
- Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu về hình thức.
- Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời
hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?
- Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có
thuyết phục không? Vì sao?
Vấn đề 2: Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ do không thực hiện đúng hợp đồng
Nghiên cứu:
- Điều 423 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 417, 425, 426 BLDS 2005) và các
quy định liên quan (nếu có);
12
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Tình huống: Ông Minh ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Cường quyền sử
dụng một mảnh đất. Hợp đồng được giao kết hợp pháp và ông Minh đã giao
đất cho ông Cường nhưng ông Cường không trả tiền cho ông Minh mặc dù ông
Minh đã nhiều lần nhắc nhở. Nay ông Minh yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng
chuyển nhượng để nhận lại đất;
- Bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long.
Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 2;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 224 và
tiếp theo;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
Và cho biết:
- Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do
có vi phạm.
- Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng).
- Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì
sao?
- Hướng giải quyết của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên như
thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
- Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ
hợp đồng do có vi phạm.
- Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không? Vì
sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ.
Nghiên cứu:
- Các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và hậu quả hợp đồng vô
hiệu trong BLDS;
13
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 93-96;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Và cho biết:
- Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra
mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục không? Vì sao?
- Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
- Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam
không?
- Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu
nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền
lệ chưa?
- Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra
và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?
- Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có,
nêu Án lệ đó.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật hợp đồng được công bố trên
các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2019 đến nay (ít nhất 20 bài viết). Khi liệt kê,
yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa mãn những thông tin
theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết trong ngoặc kép, 3) Tên Tạp chí in
nghiêng, 4) Số và năm của Tạp chí, 5) Số trang của bài viết (ví dụ: từ tr. 41-51).
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
14
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Không có lỗi soạn thảo khi đánh máy (không có khoảng cách trước dấu chấm, dấu
phẩy hay sau dấu chấm phải viết hoa...).
15
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Buổi thảo luận thứ tư: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà
***************************
- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự;
- Sinh viên làm quen và phát huy làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận thứ tư
được tiến hành theo bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình của sinh viên. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một
nhóm trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý thường gặp trong thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định (bản án) của Tòa
án, nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.
Vấn đề 1: Đối tượng dùng để bảo đảm và tính chất phụ của biện pháp bảo đảm
Nghiên cứu:
- Điều 295 BLDS 2015 (Điều 320 đến 322 BLDS 2005) và các quy định liên
quan khác (nếu có);
- Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. HCM;
- Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang;
- Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp cao
tại Tp. Hồ Chí Minh.
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 3;
- Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam-Bản án
và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2021 (xuất bản
lần thứ tư), Bản án số 5 và tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 387 đến 389.
16
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Và cho biết:
- Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có
thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
- Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
- Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?
- Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án
chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với
việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
- Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để
cầm cố?
- Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
- Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số
02.
- Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào?
Vì sao?
- Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp
đã chấm dứt?
- Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
- Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục
không? Vì sao?
- Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế
chấp (Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
và quyền sử dụng đất có thuyết phục không? Vì sao?
17
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Nghiên cứu:
- Điều 297 và Điều 298 BLDS 2015 (Điều 323, 325 BLDS2005) và các quy
định liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà
Nội;
- Quyết định số 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 3;
- Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam-Bản án
và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2021 (xuất bản
lần thứ tư), Bản án số 31 và tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 390;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=l1vhh-
dg39g&list=PLy3fk_j5LJA6gWD1_IlUl73yNZtlflQ_u
Và cho biết:
- Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp
phải đăng ký không? Vì sao?
- Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Theo Toà án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có vô
hiệu không? Vì sao?
- Hướng của Toà án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao?
- Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 21 có hiệu lực đối kháng với người thứ
ba không? Vì sao?
- Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015), Ngân
hàng có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại
tài sản thế chấp (xe ô tô) không? Vì sao?
18
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng có
thuyết phục không? Vì sao?
Nghiên cứu:
- Điều 328 BLDS 2015 (Điều 358 BLDS2005) và các quy định liên quan khác
(nếu có);
- Án lệ số 25/2018/AL; Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018
của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
- Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh.
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 3;
- Hoàng Thế Cường, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 19;
- Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam-Bản án
và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2021 (xuất bản
lần thứ tư), Bản án số 149 và tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 393 và 394;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=l1vhh-
dg39g&list=PLy3fk_j5LJA6gWD1_IlUl73yNZtlflQ_u
Và cho biết:
- Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp;
- Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc.
- Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
- Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không?
Vì sao?
19
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn
thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên
quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc.
Nghiên cứu:
- Điều 335 BLDS 2015 (Điều 361 BLDS 2005) và các quy định liên quan khác
(nếu có);
- Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 3;
- Nguyễn Trương Tín, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 18;
- Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam-Bản án
và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2021 (xuất bản
lần thứ tư), Bản án số 186 và tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 395 đến 396;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=l1vhh-
dg39g&list=PLy3fk_j5LJA6gWD1_IlUl73yNZtlflQ_u
Và cho biết:
- Những đặc trưng của bảo lãnh;
- Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.
20
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
21
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Buổi thảo luận thứ năm: Trách nhiệm dân sự, vi phạm hợp đồng
Làm việc nhóm, có thảo luận trên lớp với giảng viên về kết quả chuẩn bị ở nhà
***************************
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra
Nghiên cứu:
- Điều 360 và tiếp theo, Điều 419 BLDS 2015 (Điều 302 và tiếp theo BLDS
2005) và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Tình huống: Ông Lại (bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ) và bà Nguyễn
thỏa thuận phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, Thâu nhỏ ngực lại,
Bỏ túi nhỏ vào, Không được đụng đến núm vú. Ba ngày sau phẫu thuật, bà
Nguyễn phát hiện thấy núm vú bên phải sưng lên, đau nhức và đen như than.
Qua 10 ngày, vết mổ hở hết phần vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả túi nước đặt bên
trong và ông Lại tiến hành mổ may lại. Được vài ngày thì vết mổ bên tay phải
chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tuôn ướt đẫm cả người. Sau đó
ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế bà Nguyễn mất núm
vú phải.
Đọc:
- Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4;
22
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 192 và
tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 408 đến 416;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=pdakduyCBgQ&list=PLy3fk_j5LJA440A9xpeFN5Ft8rzqFw1gD
Và cho biết:
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
- Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn
không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã
hội đủ chưa? Vì sao?
- Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng
gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh thần
không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nghiên cứu:
- Điều 418 BLDS 2015 (Điều 402, 422 BLDS 2005); Điều 292, 301 và 307 Luật
thương mại năm 2005 và các quy định khác liên quan (nếu có);
- Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh;
- Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
Đọc:
- Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4;
- Lê Thị Diễm Phương, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 23;
23
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 206 và tiếp
theo;
- Dương Anh Sơn và Lê Thị Bích Thọ, Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi
phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 1(26)/2005;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=pdakduyCBgQ&list=PLy3fk_j5LJA440A9xpeFN5Ft8rzqFw1gD
Và cho biết:
- Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
* Đối với vụ việc thứ nhất
- Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.
- Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung
của phạt vi phạm hợp đồng?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền
trả trước 30%.
- Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng và
thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
- Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định
của Toà án trong Quyết định số 10 là thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng hay
thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?
- Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thoả thuận được nêu tại mục 4
phần Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thoả thuận phạt vi phạm
hợp đồng hay thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì
sao?
- Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm
phán?
Nghiên cứu:
- Điều 156 và Điều 351 BLDS 2015 (Điều 161, 302 và 546 BLDS 2005); Điều
292 Luật thương mại năm 2005 và các quy định khác liên quan (nếu có);
24
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Tình huống sau: Anh Văn nhận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy.
Anh Văn có mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu
của mình. Trên đường vận chuyển, tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng
toàn bộ.
Đọc:
- Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4;
- Lê Thị Diễm Phương, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 24;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 196-
198;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Và cho biết:
- Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các
bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không?
Nêu rõ cơ sở khi trả lời.
- Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do
sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
- Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các điều
kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
- Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường
cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu
Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ
góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.
Vấn đề 4: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Nghiên cứu:
- Điều 156 và Điều 420 BLDS 2015 và các quy định khác liên quan (nếu có);
- Bản án số 133/2021/DS-PT ngày 8/7/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau.
Đọc: Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015,
Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2020 ((xuất bản lần thứ ba), phần số 345-346;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
25
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=tNmAjWTR-
gI&list=PLy3fk_j5LJA5FhGiMa2eonPXrIqDzALNV&index=1
Và cho biết:
- Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi
khi thực hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường hợp
này).
- Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong một hệ
thống pháp luật nước ngoài.
- Trong vụ việc nêu trên, theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do sự kiện bất
khả kháng hay do hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Toà án (đặc biệt là liên
quan đến hoàn cảnh thay đổi cơ bản).
26
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến các quy định
chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Sinh viên làm quen và phát huy làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận thứ sáu
được tiến hành theo bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình của sinh viên. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một
nhóm trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý thường gặp trong thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định (bản án) của Tòa
án, nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng, không đầy đủ hay có
bất cập.
Vấn đề 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Nghiên cứu:
- Điều 584 BLDS 2015 (Điều 604 BLDS 2005), Nghị quyết số 03 năm 2006
của HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 20/2018/DS-ST ngày 23/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận 2, TP.
Hồ Chí Minh;
- Bản án số 99/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân TP. Đà
Nẵng.
Đọc:
- Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
- Nguyễn Phương Thảo, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn
đề 25 và 26;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 5 và tiếp theo.
27
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Và cho biết:
- Cho biết các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (thiệt hại do người gây ra) trong BLDS 2015?
- Thay đổi về các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?
- Trong Bản án số 20 (về bồi thường thiệt hại do dùng facebook nêu trên),
theo Tòa án, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng đã hội đủ chưa? Vì sao?
- Theo anh/chị, trong vụ việc trên, đã hội đủ các căn cứ làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chưa? Vì sao? (anh/chị đánh giá
từng điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã
được đáp ứng chưa).
- Trong Bản án số 99 (về covid 19), các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội đủ chưa? Vì sao?
- Việc Tòa án xác định Nguyễn Quang Trọng có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong Bản án số 99 có thuyết phục không? Vì sao?
Vấn đề 2: Xác định tổn thất về tinh thần được bồi thường
Nghiên cứu:
- Điều 590, Điều 591, Điều 592 BLDS 2015 (Điều 609, Điều 610, Điều 611
BLDS 2005), Nghị quyết số 03 năm 2006 của HĐTP và các quy định liên quan
khác (nếu có);
- Bản án số 08/2017/DS-ST ngày 30/6/2017 của Toà án nhân dân huyện IA Grai
tỉnh Gia Lai, Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Toà án nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc; Bản án số 31/2019/HS-PT ngày 10/6/2019 của Toà án nhân
dân tỉnh Phú Yên.
Đọc:
- Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
- Nguyễn Xuân Quang, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 29;
28
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 74-75, 79-81 và 101-104;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 471 đến 476;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổn thất tinh thần được
bồi thường?
- Khả năng bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm trong một
hệ thống pháp luật nước ngoài.
- Theo pháp luật hiện hành, tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm có
được bồi thường không? Vì sao?
- Đoạn nào của các bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về tổn thất
tinh thần của BLDS 2015 trong các vụ việc trên?
- Cho biết suy nghĩ của anh chị về việc Toà án không áp dụng BLDS 2005 mà
áp dụng BLDS 2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần.
- Trong Bản án số 31, đoạn nào cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về sức
khoẻ vừa bị xâm phạm về danh dự, nhân phẩm?
- Theo Toà án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm và thiệt hại
do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm có được kết hợp với nhau không?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án trong Bản án số 31
về khả năng kết hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một chủ
thể cùng bị xâm phạm.
Nghiên cứu:
- Điều 585 BLDS 2015 (Điều 605 BLDS 2005), Nghị quyết số 03 năm 2006 của
HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Tình huống: Nghĩa vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho bà Muối. Sau khi thương lượng khắc phục hậu
quả với số tiền 60.000.000đ, phía bị thiệt hại đã cam kết “bãi nại về dân sự
không yêu cầu thắc mắc khiếu nại gì về sau”, “không yêu cầu khiếu nại gì
về sau”. Tuy nhiên, nay phía bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thêm
70.000.000đ, chi phí điều trị phát sinh phải thay khớp.
29
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Đọc:
- Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 48-50;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, NXB. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 476 đến 478;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Những khác biệt cơ bản giữa thay đổi mức bồi thường không còn phù hợp với
thực tế và giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
- Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS để thay đổi mức bồi thường
không còn phù hợp với thực tế.
- Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của phía bị
thiệt hại có được chấp nhận không? Vì sao?
Vấn đề 4: Xác định người có trách nhiệm bồi thường (cùng gây thiệt hại)
Nghiên cứu:
- Điều 288 và Điều 587 BLDS 2015 (Điều 298, 616 BLDS 2005), Nghị quyết số
03 năm 2006 của HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 19/2007/DSST ngày 16/4/2007 của Tòa án nhân dân Thành phố
Pleiku-tỉnh Gia Lai; Quyết định số 226/2012/DS-GĐT ngày 22/5/2012 của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Đọc:
- Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 122-125;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 487 đến 488.
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
30
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Và cho biết:
- Trong phần “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của BLDS,
trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường
hợp nào?
- Trong Bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào? Có xác định
chính xác được người gây thiệt hại cho bà Khánh không?
- Đoạn nào của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền
và anh Hải liên đới bồi thường?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án về trách nhiệm
liên đới.
- Trong Quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?
- Trong Quyết định số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà
Hộ?
- Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có, nêu tóm
tắt tiền lệ đó.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm liên đới.
- Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi
thường?
- Bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường bao nhiêu?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh Hải.
III- Tiêu chí đánh giá
31
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến các quy định cụ
thể về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Sinh viên làm quen và phát huy làm việc nhóm. Do đó bài tập thảo luận thứ bảy
được tiến hành theo bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến buổi
thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình của sinh viên. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một
nhóm trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số vấn đề
pháp lý thường gặp trong thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định (bản án) của Tòa
án, nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng, không đầy đủ.
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra
Nghiên cứu:
- Điều 586 BLDS 2015 (Điều 606 BLDS 2005), Nghị quyết số 03 năm 2006 của
HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Tình huống: Vào lúc 16 tuổi, Hùng đã đánh anh Bình bị thương (tổng thiệt hại
là 10 triệu đồng), lấy của anh Bình một đồng hồ (bán cho người đi đường được
2 triệu đồng) và một xe đạp hiện đang gửi nhà một người bạn. Sau khi bị bắt,
Hùng khai là có ăn trộm một số đồ vật của những người trong chợ và bán được
7 triệu đồng. Hiện nay, Hùng không có bất kỳ tài sản nào.
- Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện
Cưm’Gar tỉnh Đắk Lắk.
Đọc:
- Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 139-142;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 478 đến 480;
32
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Phạm Kim Anh, “Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện
các tổ chức khác trực tiếp quản lý trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 1/2008;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nghiên cứu:
- Điều 584, Điều 600 BLDS 2015 (Điều 604, 622 BLDS 2005), Nghị quyết số
03 năm 2006 của HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
33
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định;
- Bản án số 05/2019/DS-PT ngày 16/1/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng.
Đọc:
- Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 6;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 148-151;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 494;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS 2015 còn có thêm quy định của
Điều 600?
34
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Nghiên cứu:
- Điều 584, Điều 585, Điều 603 BLDS 2015 (Điều 604, 625 BLDS 2005), Nghị
quyết số 03 năm 2006 của HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Toà án nhân dân huyện Đầm
Dơi tỉnh Cà Mau.
Đọc:
- Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 6;
- Lê Hà Huy Phát, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 34;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 172-175;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 497 đến 498;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật”?
- BLDS có định nghĩa “súc vật” là gì không?
- Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?
- Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra?
- Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra?
35
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà án áp dụng các quy định về bồi thường thiệt
hại do súc vật gây ra.
- Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt
hại.
- Suy nghĩ của anh chị về việc Toà án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà
bà Nga bị xâm hại?
- Việc Toà án không buộc ông Nhà bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Nga có
thuyết phục không? Vì sao?
36
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Nghiên cứu:
- Điều 275, Điều 579 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 194, 281, 600 và 601
BLDS 2005) và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 19/2017/DS-ST ngày 03/5/2017 của Toà án nhân dân huyện Long
Hồ tỉnh Vĩnh Long.
Đọc:
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 1;
- Lê Minh Hùng, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 2;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 278 và 279;
- Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb.
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2020 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 15-
18;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=4YepPrCIlvU&list=PLy3fk_j5LJA4xqs1oy1oSSJiE5fPovU9g
37
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Và cho biết:
- Thế nào là được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật?
- Vì sao được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ phát sinh
nghĩa vụ?
- Trong điều kiện nào người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có
trách nhiệm hoàn trả?
- Trong vụ việc được bình luận, đây có là trường hợp được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật không? Vì sao?
- Nếu Ngân hàng không rút yêu cầu tính lãi chậm trả thì phải xử lý như thế
nào? Cụ thể, anh T có phải chịu lãi không? Nếu chịu lãi thì chịu lãi từ thời
điểm nào, đến thời điểm nào và mức lãi là bao nhiêu?
Nghiên cứu:
- Điều 120 BLDS 2015 (Điều 125 BLDS 2005) và các quy định liên quan
khác (nếu có);
- Quyết định số 09/2022/DS-GĐT ngày 30/3/2022 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
Đọc:
- Lê Thị Diễm Phương, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 14;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 29-32.
Và cho biết:
- BLDS có cho biết thế nào là hợp đồng giao kết có điều kiện phát sinh
không?
- Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu tại thời
điểm giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu, có quy
định nào của BLDS coi đây là hợp đồng giao kết có điều kiện không?
- Trong Quyết định số 09, Tòa án nhân dân tối cao có coi hợp đồng trên là
hợp đồng giao kết có điều kiện không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả
lời?
- Ngoài Quyết định số 09, còn có bản án/quyết định nào khác đề cập đến vấn
đề này không? Nêu một bản án/quyết định mà anh/chị biết.
38
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Theo Hội đồng thẩm phán, cho đến khi bà Lan được Gấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại chưa?
Có vô hiệu không? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán;
- Suy nghĩ của anh/chị về việc vận dụng các quy định liên quan đến giao kết
hợp đồng có điều kiện phát sinh.
Nghiên cứu:
- Điều 407 BLDS 2015 (Điều 406, 410 BLDS 2005) và các quy định liên
quan khác (nếu có);
- Tình huống: Ngân hàng cho Công ty Thiên Minh vay một số tiền. Việc vay
này được bà Quế đứng ra bảo lãnh bằng một bất động sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng bà Quế. Việc bảo lãnh bằng bất động sản đã được công
chứng nhưng không có sự đồng ý của chồng bà Quế. Khi xảy ra tranh chấp,
Tòa án xét rằng “hợp đồng thế chấp trên bị vô hiệu” và “không có cơ sở để
buộc bà Quế phải chịu trách nhiệm dân sự đối với các khoản nợ nêu trên”.
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 120-
122.
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
Và cho biết:
- Thế nào là hợp đồng chính và hợp đồng phụ? Cho ví dụ minh họa đối với
mỗi loại hợp đồng.
- Trong vụ việc trên, ai là người (chủ thể) có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân
hàng?
- Bà Quế tham gia quan hệ trên với tư cách gì? Vì sao?
- Việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu có thuyết phục không?
Vì sao?
- Theo Tòa án, bà Quế có còn trách nhiệm gì đối với Ngân hàng không?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên liên
quan đến trách nhiệm của bà Quế.
39
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Vấn đề 4: Phân biệt thời hiệu khởi kiện tranh chấp về tài sản và về hợp đồng
Nghiên cứu:
- Điều 155, Điều 328 và Điều 429 BLDS 2015 (Điều 358 và 427 BLDS 2005)
và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Quyết định số 14/2017/QĐ-PT ngày 14/7/2017 của Toà án nhân tỉnh Hưng
Yên.
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 244-
249.
Và cho biết:
- Những điểm khác biệt giữa thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng và thời
hiệu khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
- Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng
hay tranh chấp về quyền sở hữu tài sản? Vì sao?
- Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng
hay tranh chấp về quyền sở hữu tài sản? Vì sao?
- Đường lối giải quyết của Toà án về 2 khoản tiền trên có thuyết phục không?
Vì sao?
- Đường lối giải quyết cho hoàn cảnh như trên có thay đổi không khi áp dụng
BLDS 2015? Vì sao?
40
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
41
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến pháp luật về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Sinh viên làm quen và phát huy làm việc nhóm. Do đó bài tập tháng thứ hai
được tiến hành theo bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà nộp
cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật và giải quyết một số
vấn đề pháp lý khi văn bản không đầy đủ, không hoàn thiện hoặc có sự khác
nhau giữa văn bản và thực tiễn;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định của Tòa án,
nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.
- Rèn luyện kỹ năng tìm kiếm tài liệu liên quan đến một chủ đề. Do đó, trong
bài tập này sinh viên phải tìm kiếm tài liệu theo yêu cầu của đề cương.
- Rèn luyện kỹ năng sử dụng tin học và Internet. Do đó, các nhóm sẽ gửi cho
lớp trưởng và lớp trưởng gửi cho giảng viên phụ trách thảo luận bài tập này
qua địa chỉ email cá nhân.
Nghiên cứu:
- Điều 591 BLDS 2015 (Điều 610 BLDS 2005), Nghị quyết số 03 năm 2006 của
HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 26/2017/HSST ngày 07/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang,
Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Đọc:
- Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 93 và tiếp theo;
42
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 480 đến 483;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về thiệt hại vật chất khi
tính mạng bị xâm phạm.
- Nghị quyết số 03 của HĐTP có quy định chi phí đi lại dự lễ tang được bồi
thường không? Vì sao?
- Trong thực tiễn xét xử trước đây, chi phí đi lại dự lễ mai táng có được bồi
thường không? Nếu có, nêu vắn tắt thực tiễn xét xử đó?
- Đoạn nào trong bản án của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang cho thấy Tòa án đã
chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay? Đây có là chi phí đi lại dự
lễ mai táng không?
- Trong vụ việc trên, nếu chi phí máy bay trên là chi phí đi lại dự lễ mai táng,
việc cho bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?
- Nếu chi phí trên là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự lễ tang thì chi phí đó
có được bồi thường không? Vì sao?
- Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp
dưỡng cho ai và không buộc người gây thiệt hại bồi thường tiền cấp dưỡng cho
ai? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến người
được bồi thường tiền cấp dưỡng.
- Trong bản án số 26, Toà án theo hướng tiền cấp dưỡng được thực hiện một lần
hay nhiều lần?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Toà án liên quan đến
cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại phát sinh trong tai nạn giao thông
Nghiên cứu:
- Điều 584, Điều 601 BLDS 2015 (Điều 604, 623 BLDS 2005), Nghị quyết số
03 năm 2006 của HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Quyết định số 23/GĐT-DS ngày 2/2/2005 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao và Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26/9/2006 của Tòa hình sự Tòa
án nhân dân tối cao.
43
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Đọc:
- Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 6;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 216 và tiếp theo.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 494 đến 497;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Thay đổi về các quy định liên quan tới Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?
- Xe máy, ô tô có là nguồn nguy hiểm cao độ không? Vì sao?
- Trong hai vụ việc trên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do
hành vi của con người gây ra? Vì sao?
- Trong hai vụ việc trên, đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng
các quy định của chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng các quy định của chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Trong Quyết định số 30, đoạn nào cho thấy Tòa án buộc bà Trinh bồi
thường thiệt hại?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc bà Trinh bồi thường thiệt hại.
- Trên cơ sở Điều 604 BLDS 2005, Điều 584 BLDS 2015, Tòa án có thể buộc
Giang bồi thường thiệt hại không? Vì sao?
- Theo Nghị quyết số 03, chi phí xây mộ và chụp ảnh có được bồi thường
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa phúc thẩm và của Tòa
giám đốc thẩm liên quan đến chi phí xây mộ và chụp ảnh.
- Trong Quyết định số 23, đoạn nào cho thấy Bình là người bị thiệt hại?
- Ông Khánh có trực tiếp gây ra thiệt hại cho anh Bình không? Vì sao?
44
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh Bình với tư cách nào? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án buộc ông Khánh bồi thường cho anh
Bình.
- Bình có lỗi trong việc để thiệt hại phát sinh không? Đoạn nào của bản án
cho câu trả lời?
- Đoạn nào cho thấy, Tòa giám đốc thẩm không theo hướng buộc ông Dũng
và ông Khánh bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Bình?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- BLDS và Nghị quyết số 03 có quy định cho phép chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại
không?
- Tòa giám đốc thẩm có theo hướng cho phép chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại
không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời.
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa giám đốc thẩm theo hướng cho phép chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được yêu cầu người sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ gây thiệt hại bồi hoàn khoản tiền mà chủ sở hữu bồi thường
cho người bị thiệt hại.
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại trong hay ngoài hợp đồng
Nghiên cứu:
- Các quy định về bồi thường thiệt hại trong và ngoài hợp đồng;
- Quyết định số 451/2011/DS-GĐT ngày 20/6/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao và Bản án số 750/2008/DSPT ngày 17/07/2008 của Tòa án
nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
Đọc:
- Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 1-4;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 483;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
45
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Và cho biết:
- Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Trong hai vụ việc trên, có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và
bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại không? Vì sao?
- Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay trong hợp đồng? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc trên
về vấn đề xác định bản chất pháp lý (trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi
thường giữa các bên.
Nghiên cứu:
- Điều 352 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 302 đến 306, khoản 2 Điều 436
BLDS2005) và các quy định liên quan (nếu có);
- Quyết định số 36/2013/KDTM-GĐT ngày 17/9/2013 của Tòa kinh tế Tòa án
nhân dân tối cao;
- Bản án số 418/2017/DS-ST ngày 29/9/2017 của Toà án nhân dân quận 10,
Tp. Hồ Chí Minh.
Đọc:
- Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 185-
188;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Và cho biết:
- Đối với vụ việc trong Quyết định số 36, đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương
đã buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng?
- Hướng của Tòa án địa phương có được Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Vì sao Tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên? Đoạn nào của Quyết định
cho câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
46
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Đối với vụ việc trong Bản án số 418, Công ty K có nghĩa vụ làm thủ tục để cấp
Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Vì sao?
- Nghĩa vụ làm thủ tục trên đã bị vi phạm chưa và Tòa án có buộc Công ty K
tiếp tục làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư
không? Vì sao?
- Trên cơ sở văn bản, có quy định nào cho phép Tòa án buộc Công ty K tiếp tục
làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà chung cư không? Nêu
rõ cơ sở văn bản khi trả lời.
- Cho biết những cơ chế để việc buộc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hiệu quả trong
thực tế.
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2019
đến nay (ít nhất 20 bài).
Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa
mãn những thông tin theo trật tự như đã yêu trong buổi thảo luận thứ 3.
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
* Về nội dung (8 điểm): Mỗi bài tập trong 4 bài tập đầu 1,5 điểm và bài tập cuối 02
điểm.
47
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Sinh viên hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến pháp luật về
hợp đồng và pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Sinh viên phát huy làm việc nhóm. Do đó bài tập này được tiến hành theo
bài tập nhóm (khoảng 10 sinh viên/nhóm);
- Rèn luyện kỹ năng viết. Do đó, sinh viên phải chuẩn bị bài viết ở nhà và đến
buổi thảo luận nộp cho giảng viên phụ trách một bản để giảng viên đánh giá;
- Rèn luyện kỹ năng thuyết trình. Vì vậy, trong buổi thảo luận, một nhóm
trình bày bài tập đã chuẩn bị ở nhà và các nhóm khác phản biện;
- Rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật để giải quyết một số
vấn đề pháp lý;
- Rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu, đánh giá một quyết định của Tòa án,
nhất là đối với những vấn đề mà văn bản không rõ ràng hay không đầy đủ.
Nghiên cứu:
- Điều 387 và Điều 126 BLDS 2015 (Điều 131 BLDS 2005) và các quy định
liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/6/2016 của Toà án nhân dân TP. Tuy
Hoà tỉnh Phú Yên.
Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức– Hội Luật gia Việt Nam, 2017, Chương 2;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại học
quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 62-64;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM, 2007, tr. 361 đến 364;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
48
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Và cho biết:
- Theo Toà án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất
chuyển nhượng không?
- Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung
cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng không? Vì sao?
- Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn có thuyết
phục không? Vì sao?
- Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn không? Vì sao?
Vấn đề 2: Hợp đồng vô hiệu một phần và hậu quả hợp đồng vô hiệu
Nghiên cứu:
- Điều 130, Điều 131, Điều 133 BLDS 2015 (Điều 135, Điều 137, 138 BLDS
2005)và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao; Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày
28/03/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Đọc:
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 2;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 2020 (xuất bản lần thứ tám), Bản án số 117-
119, 123 và tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 361 đến 364;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
Và cho biết:
- Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
- Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của
hộ gia đình?
49
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần.
- Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.
- Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
- Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như
thế nào?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
- Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn
Nghiên cứu:
- Điều 293và Điều 335 BLDS 2015 (Điều 361 BLDS 2005);
- Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa án
nhân dân tối cao.
Đọc:
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 3;
- Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam-
Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam
2021 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 1-4;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia, 2007, tr. 481;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=l1vhh-dg39g&list=PLy3fk_j5LJA6gWD1_IlUl73yNZtlflQ_u
Và cho biết:
- Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
- Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn
bảo lãnh của Ngân hàng không?
- Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện
Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có
50
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
còn trách nhiệm của người bảo lãnh không? Đoạn nào của Quyết định có
câu trả lời?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao.
Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn
Nghiên cứu:
- Điều 585 BLDS 2015 (Điều 605 BLDS 2005), Nghị quyết số 03 năm 2006 của
HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Tình huống: Anh Nam là người thuộc quản lý của UBND xã, đã vô ý gây
thiệt hại cho bà Chính khi thực hiện công việc được UBND xã giao . Thực
tế, thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam và Tòa án đã
áp dụng các quy định về giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với
khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức bồi thường.
Đọc:
- Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
- Nguyễn Xuân Quang, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 32;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 47-50;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, NXB. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 476 đến 478;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
- Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức
bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn
định mức bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?
Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Nghiên cứu:
51
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
- Điều 288, Điều 601 BLDS 2015 (Điều 298, 623 BLDS 2005), Nghị quyết
số 03 năm 2006 của HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
Đọc:
- Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 6;
- Nguyễn Xuân Quang, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 35;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 168-171;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, NXB. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 494 đến 497;
- Mai Bộ, “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”, Tạp chí
Tòa án nhân dân số 2/2003;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
- Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
không?
- Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường giây hạ thế gây thiệt hại?
- Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
gia đình nạn nhân?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho gia đình nạn nhân.
52
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Vấn đề 6: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
Nghiên cứu:
- Điều 598 BLDS 2015 (Điều 619, Điều 620 BLDS 2005), Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước và các quy định liên quan khác (nếu có);
- Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên;
Đọc:
- Nguyễn Trương Tín, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 7;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia, 2007, tr. 489 đến 490;
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và
bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần
thứ năm), Bản án số 152-154;
- Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk_j5LJA487xHkSyvjKFbcIeFX_xq7
Và cho biết:
- Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.
- Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh không? Vì sao?
- Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,
hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
53
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
* Về nội dung (8 điểm): Bài tập 1: 1 điểm; bài tập 2: 1 điểm; bài tập 3: 1 điểm, bài tập
4: 1 điểm, bài tập 5: 2 điểm và bài tập 6: 2 điểm.
54
Buổi thảo luận thứ nhất
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
Buổi thảo luận thứ hai
65
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 399/2020/TLPT-DS ngày
28 tháng 7 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy chỉnh lý và hợp đồng tín dụng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân
dân tỉnh L bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3833/2020/QĐ-PT ngày 16
tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Huỳnh Tấn P, sinh năm 1979 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Ấp Bình Lợi, xã Hòa Khánh Đông, huyện Đ, tỉnh L.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Mai Thanh N, sinh năm 1989;
Địa chỉ: Số 43 Ô 6, Khu B, thị trấn Đức Hòa, huyện Đ, tỉnh L (Văn bản ủy quyền
ngày 20/3/2017) – Có mặt;
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1987 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Ấp Nhơn Hòa 1, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đ, tỉnh L.
3.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1975 – Có mặt;
Địa chỉ: Ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L.
3.2. Ông Nguyễn Ngọc N1, sinh năm 1976 – Có mặt;
Địa chỉ: Ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đ, tỉnh L;
3.3. Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố H (viết tắt HD Bank);
66
1
Người đại diện hợp pháp: Bà Đỗ Thị Thành Q – Phó phòng Giám sát nợ -
Trung tâm xử lý nợ (Văn bản ủy quyền số 1482/2020/QĐ-TGĐ ngày 08/4/2020 và
văn bản ủy quyền ngày 11/11/2020) – Có mặt;
3.4. Bà Nguyễn Thị Dạ T, sinh năm 1987 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Ấp 2, xã Bình Hưng Hòa, huyện Đ, tỉnh L.
Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị Dạ T: Ông Nguyễn Tấn L – bị
đơn (Văn bản ủy quyền ngày 06/7/2017) – Vắng mặt.
3.5. Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1992 – Vắng mặt;
Trú ấp Văn Thủy 1, xã Cam Phước Tây, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa;
3.6. Ông Nguyễn Hoàng G, sinh năm 1988 – Vắng mặt;
3.7. Bà Cao Thị Mỹ C, sinh năm 1989 – Vắng mặt;
3.8. Anh Nguyễn Gia H2, sinh năm 2014 – Vắng mặt;
3.9. Ông Nguyễn Thái H3, sinh năm 1984 – Vắng mặt;
3.10. Bà Nguyễn Thị Huyền T1, sinh năm 1989 – Vắng mặt;
3.11. Chị Nguyễn Ngọc H4, sinh năm 2013 – Vắng mặt;
3.12. Anh Nguyễn Quốc H5, sinh năm 2015 – Vắng mặt;
3.13. Bà Voòng Thị L1, sinh năm 1965 – Vắng mặt;
3.14. Ông Nguyễn Chí C, sinh năm 1988 – Vắng mặt;
3.15. Ông Nguyễn Chí T2, sinh năm 1996 – Vắng mặt;
Đều trú ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L.
3.16. Chị Nguyễn Thị Như N, sinh năm 2001 – Vắng mặt;
3.17. Cụ Huỳnh Thị T3, sinh năm 1933 – Vắng mặt;
Đều trú ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đ, tỉnh L;
3.18. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1972 – Vắng mặt;
Địa chỉ: ấp Lập Thành, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đ, tỉnh L;
3.19. Ông Lại Triệu L2, sinh năm 1964 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Căn hộ A15-08 Tầng 15, Khối A, chung cư An Phú 961-973/1 Hậu
Giang, Phường 11, Quận 6, Thành phố H;
3.20. Ông Trương Văn K, sinh năm 1973 – Vắng mặt;
Địa chỉ: 458 Gia Phú, Phường 3, Quận 6, Thành phố H;
3.21. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L - Có đơn vắng mặt;
3.22. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ – Vắng mặt
3.23. Văn phòng công chứng Lư Thành D - Vắng mặt;
Địa chỉ: Số 404 ấp Chánh Hội, xã Tân Mỹ, huyện Đ, tỉnh L;
3.24. Văn phòng công chứng Đ - Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
Địa chỉ: 117 Khu phố 3, thị trấn Đông Thành, huyện Đ, tỉnh L;
3.25. Văn phòng công chứng Võ Văn N (Trước đây là Phòng công chứng số 4)
- Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
Địa chỉ: 239 ĐT823, Ô 5, Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đ, tỉnh L;
3.26. Văn phòng công chứng Trần Văn C (Trước đây là Văn phòng công
chứng Đ) - Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
Địa chỉ: Ấp Bình Tiền 1, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đ, tỉnh L.
3.27. Văn phòng công chứng Lương Khánh L – Vắng mặt;
Địa chỉ: Số 795 Hồng Bàng, Phường 6, Quận 6, Thành phố H.
4. Người kháng cáo:
67
2
4.1. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc N1.
4.2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Phát triển Thành phố H;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 24/3/2017, ngày 29/5/2017 của nguyên đơn ông
Huỳnh Tấn P và người đại diện trình bày:
Khoảng tháng 10/2016, ông cho ông Búa vay 100.000.000 đồng và thỏa thuận
ông B chuyển nhượng cho ông các thửa đất số 20, 21, 22 tờ bản đồ số 1, ấp Giồng
Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ do ông B đứng chủ quyền để đảm bảo cho khoản
vay trên. Giấy cam kết có nội dung ông B được mua lại tài sản với giá 160.000.000
đồng và đã giao nhận đủ tiền. Vì bận làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh nên ông nhờ
ông Nguyễn Tấn L đứng tên ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với
ông B, được Văn phòng công chứng Lư Thành D công chứng số 669, quyển số 01
ngày 22/01/2016. Ông L kê khai và được cập nhật trên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 25/11/2016, sau đó ông L có đơn nên đã được cấp đổi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 967953
ngày 08/02/2017 thửa 20; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 967955 ngày
08/02/2017 thửa 21 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 967954 ngày
08/02/2017 thửa 22; Ông đã nhiều lần yêu cầu ông L chuyển các thửa đất trên lại cho
ông nhưng ông L né tránh, không thực hiện.
Hiện trên thửa đất 21, 22 có các hộ Nguyễn Văn B, Nguyễn Hoàng V, Voòng
Thị L , Nguyễn Thị Huyền T1 đang ở; thửa 20 có mồ mả người thân của ông B. Vì
1
ông B ký hợp đồng chuyển nhượng đất là để đảm bảo khoản vay giữa ông B với ông,
ông với ông B sẽ tự thỏa thuận số tiền vay này.
Ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vô hiệu các Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng các thửa đất số 20, 21, 22 giữa ông B với ông L, giữa ông L,
bà T với bà Nguyễn Thị Thu H, giữa bà Nguyễn Thị Thu H (ủy quyền cho ông L 2,
ông K) với ông Nguyễn Ngọc N1; Hủy các thông báo cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa
chính các thửa đất tranh chấp trên; Hủy các hợp đồng ủy quyền giữa ông L bà T với
bà Nguyễn Thị H1, giữa bà Nguyễn Thị H1 với ông L2, giữa ông L2 với ông K; Hủy
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Thu H với HD Bank; Hủy
các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 967953; CG 967954; CG 967955 và
cho ông được kê khai đăng ký quyền sử dụng đất các thửa 20, 21, 22 nêu trên.
Bị đơn ông Nguyễn Tấn L trình bày: Ông làm ăn chung với ông P từ tháng
10/2016. Khoảng tháng 11/2016, ông P giới thiệu ông nhận chuyển nhượng mảnh đất
của ông B gồm các thửa đất số 20, 21, 22 với giá 350.000.000 đồng. Ông P nói có
quen với ông B nên đề nghị ông để ông P trực tiếp giao dịch để được bán giá rẻ thì
ông đồng ý. Không biết vì lý do gì mà ông P không cho ông gặp trực tiếp ông B. Ông
P và ông B nói chuyện xong thì ông P có chỉ cho ông xem ranh đất trước khi mua.
Ông giao cho ông P đủ 350.000.000 đồng tại quán cà phê và ông trực tiếp ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông B tại Văn phòng công chứng. Ông
nhờ dịch vụ chuyển tên, đo đạc chi phí 10.000.000 đồng không ai ngăn cản. Đến
ngày 08/02/2017 ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đầu năm 2017
ông đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Thu H hết cả 3 thửa đất trên với giá
68
3
550.000.000 đồng tại Văn phòng công chứng Đ. Ông đã giao giấy tờ đất cho bà
Nguyễn Thị Thu H và nhận đủ tiền.
Khoảng tháng 5/2017, bà Nguyễn Thị Thu H báo cho ông biết sai vị trí đất, các
thửa đất ông P chỉ cho ông là đất trống nằm liền kề 3 thửa đất mà ông B chuyển
nhượng cho ông thì có nhà cửa, mồ mã trên đất nên ông liên lạc với ông P nhiều lần
nhưng không được thì ông biết ông bị ông P lừa, nhưng do bà Nguyễn Thị Thu H
không làm khó khăn nên ông không kiện ông P hành vi lừa đảo. Ông đã chuyển
nhượng đất lại cho người khác nên ông không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện
của ông Phát.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn B trình bày: Năm
2016, ông nhờ ông T4 giới thiệu ông vay của ông P 100.000.000 đồng dưới hình thức
chuyển nhượng các thửa đất số 20, 21 và 22 cho ông L như yêu cầu của ông P để
đảm bảo cho khoản tiền vay, vì ông P nói nếu thế chấp thì Văn phòng công chứng sẽ
không công chứng. Ngày 22/11/2016, ông đến Văn phòng công chứng Lư Thành D
thì người ký hợp đồng là ông L, ông có hỏi thì ông P bảo cứ ký đi, không có việc gì
đâu. Do thấy ông P đi với ông L nên ông ký hợp đồng và ký biên nhận 100.000.000
đồng, nhưng thực chất ông chỉ nhận 88.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng với ông
L thì ông P có đưa cho ông “Giấy cam kết” trong thời hạn 05 năm được chuộc lại đất
với số tiền 160.000.000 đồng. Ông yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông L với bà Nguyễn Thị Thu H, hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Nguyễn Thị Thu H, hủy các hợp đồng thế
chấp đất với Ngân hàng và công nhận quyền sử dụng cho ông các thửa đất trên, ông
sẽ hoàn trả đầy đủ tiền vay cho ông P.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu H trình bày: Việc
bà nhận chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất 20, 21 và 22 của ông L đã thanh
toán tiền đầy đủ và đã được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện Đ cập
nhật, chỉnh lý xong và bà đã thế chấp thửa 21 và 22 cho Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Phát triển Thành phố H – Chi nhánh Tân Phú. Do đó, bà không đồng ý yêu cầu
khởi kiện của ông P và yêu cầu của ông B. Khi nào bà chuyển nhượng đất thì bà sẽ
thanh toán nợ cho Ngân hàng. Nếu Tòa chấp nhận yêu cầu của ông P, ông B thì bà sẽ
kiện ông L trong vụ án khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Voòng Thị L 1 trình bày: Nguồn gốc
các thửa đất số 20, 21 và 22 của cụ Huỳnh Thị T 3 (Tên khác: T3) đứng tên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997. Năm 2007, cụ T3 cắm cọc ranh chia đất
cho các con nhưng chưa tách quyền sử dụng đất. Năm 2005, do tuổi cao nên cụ T 3
chuyển cho ông B đại diện đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được anh
chị em trong gia đình đồng ý. Hiện trên đất có 04 căn nhà của 04 hộ gia đình gồm:
Hộ bà Voòng Thị L1; hộ Nguyễn Hoàng V; hộ Nguyễn Thái H 3 và hộ Nguyễn Văn B.
Nhà của bà xây năm 2010, đến năm 2017 đi làm thủ tục tách quyền sử dụng đất thì
mới biết ông B đã ký hợp đồng chuyển nhượng đất với ông L. Bà không đồng ý yêu
cầu khởi kiện của ông P. Bà chấp nhận để sau này ông B tách quyền sử dụng đất cho
bà và bà xin vắng mặt tại Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thái H 3 trình bày: Nguồn
gốc đất như bà Voòng Thị L1 trình bày là đúng. Cha vợ anh là Nguyễn Văn C 1 (đã
chết) được cụ T3 cho đất từ năm 2007, đến năm 2015 cất nhà nhưng chưa làm thủ tục
69
4
sang tên. Anh không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông P. Anh chấp nhận để sau này
ông B tách quyền sử dụng đất cho anh và anh xin vắng mặt tại Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc N 1 trình bày: Ông
nhận chuyển nhượng thửa đất số 20 của bà H với giá 585.000.000 đồng (Giá ghi trên
hợp đồng chỉ 20.000.000 đồng là để giảm thuế) được Văn phòng công chứng Đ công
chứng, ông đã thanh toán đủ tiền và đã được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai
xác nhận ngày 06/9/2018. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông P và yêu cầu
của ông B.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan HD Bank trình bày: Bà Nguyễn Thị
Thu H ký Hợp đồng số 5559/17/HĐBĐ-016 ngày 27/4/2017, chứng thực 4419 và
đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai tại huyện Đ số
2573 thế chấp thửa đất số 21 và thửa số 22 để vay 300.000.000 đồng theo Hợp đồng
tín dụng số 6484/17/HĐTDTDH-CN/016 ngày 05/5/2017 và 200.000.000 đồng theo
Hợp đồng tín dụng số 6486/17/HĐTDTDH-CN/016 ngày 05/5/2017. Tính đến ngày
25/7/2018, bà H còn nợ HD Bank vốn gốc 474.999.971 đồng, lãi 55.557.511 đồng,
tổng cộng 530.557.482 đồng. HD Bank yêu cầu Tòa án buộc bà H thanh toán nợ và
cho HD Bank xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai
tại huyện Đ trình bày: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Văn B với ông Nguyễn Tấn L được công chứng ngày 22/11/2016. Sau khi
kiểm tra hồ sơ, Chi nhánh đã thẩm định và trình Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông L các thửa đất số 20, 21, 22 là đúng
quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Tại Công văn số 1994/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 17/7/2019 của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L trình bày: Việc cấp cho
ông Nguyễn Tấn L các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 20, 21 và 22 do
nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Văn B là đúng trình tự, thủ tục.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án
nhân dân tỉnh L đã quyết định:
Căn cứ vào các điều 26, 34, 35, 147, 157, 165, 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính 2015; Khoản 1 khoản 2 Điều 50
Luật Đất đai năm 2003; Điều 100 và Điều 167 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Tấn P về việc được kê khai đăng
ký quyền sử dụng đất tại các thửa số 20, 21, 22, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn, xã
Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L;
2.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Tấn P đối với ông Nguyễn Tấn
L về việc “Vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hủy chỉnh lý, hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các quyết định hành chính có liên quan, hủy
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất”;
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B về việc yêu cầu “Vô
hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hủy chỉnh lý, hủy Giấy chứng
70
5
nhận quyền sử dụng đất và các quyết định hành chính có liên quan, hủy hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất”;
3.1. Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa ông
Nguyễn Văn B với ông Nguyễn Tấn L về việc chuyển nhượng thửa đất số 20, 21, 22,
tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L được Văn phòng
công chứng Lư Thành D công chứng số 669, quyển 01/2016-TP/CC/HĐGD ngày
22/01/2016;
3.2. Hủy Thông báo về việc cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính của Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký Đất đai tại huyện Đ đối với các thửa đất số 20, 21, 22, tờ bản đồ
số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L từ ông Nguyễn Văn B sang
ông Nguyễn Tấn L;
3.3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản
khác gắn liền với đất số CG 967953, CG 967954 và CG 967955 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh L cấp cùng ngày 08/02/2017 cho ông Nguyễn Tấn L;
3.4. Hủy Hợp đồng ủy quyền giữa vợ chồng ông Nguyễn Tấn L, Nguyễn Thị
Dạ T với Nguyễn Thị H1 do Văn phòng công chứng Lư Thành D công chứng số 188,
quyển 01/2017-TP/CC/HĐGD ngày 03/3/2017 về việc giao quyền định đoạt các thửa
đất số 20, 21, 22, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L;
3.5. Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các thửa số 20,
21, 22, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L giữa ông
Nguyễn Tấn L, Nguyễn Thị Dạ T do Nguyễn Thị H1 đại diện với bên nhận chuyển
nhượng là bà Nguyễn Thị Thu H do Văn phòng công chứng Đ công chứng số 770,
quyển 01/2017-TP/CC/HĐGD ngày 31/3/2017;
3.6. Hủy chỉnh lý biến động trên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CG 967953, CG 967954 và
CG 967955 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cùng ngày 08/02/2017 từ
Nguyễn Tấn L sang bà Nguyễn Thị Thu H được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất
đai tại huyện Đ chỉnh lý ngày 10/4/2017;
3.7. Hủy một phần Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 5559/17/HĐBĐ-
016 ngày 27/4/2017 giữa Ngân hàng TMCP phát triển Thành phố H với bên thế chấp
là bà Nguyễn Thị Thu H, hợp đồng công chứng số 4419, quyển số 9 TP/CC/HĐBĐ
của Phòng Công chứng số 4, tỉnh L đối với thửa đất số 21, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng
Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L, đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký Đất đai tại huyện Đ, tỉnh L số thứ tự 2573, quyển số 01;
3.8. Hủy Hợp đồng ủy quyền số 04071 do Văn phòng công chứng Lương
Khánh L công chứng ngày 16/8/2017 giữa Nguyễn Thị Thu H với Lại Triệu L 2 đối
với thửa 20, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L;
3.9. Hủy Hợp đồng ủy quyền số 03022 do Văn phòng công chứng Lương
Khánh L công chứng ngày 23/5/2018 giữa Lại Triệu L 2 với Trương Văn K đối với
thửa 20, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L;
3.10. Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa số 20,
tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L giữa Nguyễn Thị
Thu H ủy quyền Lại Triệu L2 và đại diện ông L2 là ông Trương Văn K ký kết với bên
nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Ngọc N1 được Văn phòng công chứng Đ công
chứng số 24269, quyển số 08 TP/CC/HĐGD ngày 07/8/2018;
71
6
3.11. Hủy chỉnh lý biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất thửa số 20, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng
Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L sang ông Nguyễn Ngọc N1.
4. Ghi nhận ông Nguyễn Văn B và Huỳnh Tấn P đã giải quyết xong số tiền
trong hợp đồng vay.
5. Ghi nhận việc ông Nguyễn Tấn L, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Thị Thu H
không yêu cầu giải quyết hậu quả của các hợp đồng vô hiệu. Các đương sự được
quyền tranh chấp trong vụ án khác.
6. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Phát triển
Thành phố H đối với bà Nguyễn Thị Thu H về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
6.1. Buộc bà Nguyễn Thị Thu H phải trả cho Ngân hàng TMCP Phát triển
Thành phố H: Số tiền trong hợp đồng số L17050409391 là 395.635.810 đồng, bao
gồm vốn 274.999.971 đồng, lãi trong hạn 70.006.258 đồng, lãi quá hạn 50.269.554
đồng; Số tiền trong hợp đồng số L170504093911 là 297.251.834 đồng, bao gồm vốn
200.000.000 đồng, lãi trong hạn 15.122.740 đồng, lãi quá hạn 82.128.834 đồng;
Tổng cộng hai khoản nợ vay và lãi đến ngày 19/5/2020 là 692.887.388 đồng.
6.2. Bà Nguyễn Thị Thu H có nghĩa vụ chịu lãi theo thỏa thuận tại hợp đồng
tín dụng đã lý tiếp sau ngày 19/5/2020.
6.3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong bà H
còn phải chịu lãi suất theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký.
6.4. Vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
5559/17/HĐBĐ-016 ngày 27/4/2017 giữa Ngân hàng TMCP phát triển Thành phố H
với bên thế chấp là bà Nguyễn Thị Thu H, hợp đồng công chứng số 4419, quyển số 9
TP/CC/HĐBĐ của Phòng Công chứng số 4, tỉnh L đối với thửa đất số 22, tờ bản đồ
số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L;
6.5. Không chấp nhận tài sản thế chấp là thửa số 22, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng
Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L vì chưa đủ giá trị pháp lý;
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm; về chi phí
đo đạc, định giá; về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp
luật.
Ngày 20/6/2020, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc N 1
có đơn kháng cáo yêu cầu công nhận thửa đất số 20 cho ông.
Ngày 22/6/2020, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan HD Bank có đơn
kháng cáo yêu cầu công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và cho HD Bank
xử lý tài sản thế chấp gồm thửa 21 và 22 để thu hồi nợ.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Ông Nguyễn Ngọc N1 giữ nguyên kháng cáo yêu cầu công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 20 giữa ông với bà Nguyễn Thị Thu H và
công nhận thửa đất số 20 cho ông, vì khi nhận chuyển nhượng ông không biết đất
đang có tranh chấp và ông đã thanh toán đủ tiền cho bà H. Ông có thấy 01 ngôi mộ
trên đất nhưng ông với bà H thỏa thuận chỉ chuyển nhượng phần đất trống, không
chuyển nhượng phần có mồ mã. Đề nghị Tòa án xem xét ông P, ông L và ông B đã có
lời khai không trung thực. Ông xác định nếu hợp đồng bị vô hiệu thì ông không yêu
cầu giải quyết hậu quả trong vụ án này, mà ông sẽ tự giải quyết hậu quả với bà H
hoặc khởi kiện bà H trong vụ kiện khác.
72
7
Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển
Thành phố H giữ nguyên kháng cáo yêu cầu công nhận hợp đồng thế chấp thửa 21,
22 giữa Ngân hàng với bà Nguyễn Thị Thu H và cho Ngân hàng xử lý tài sản thế
chấp là thửa 21, 22 để thu hồi nợ. Trang bổ sung thửa đất số 22 có đóng dấu giáp lai
của Ngân hàng nên có giá trị. Bản án sơ thẩm không đưa ra được cơ sở pháp lý để
không áp dụng Điều 133 Bộ luật dân sự và Công văn số 64 của Tòa án nhân dân tối
cao.
Ông Mai Thanh N đề nghị xem xét lúc coi đất thì ông N 1 đã thấy có mồ mã
trên đất, bà Thu H không trung thực khi thế chấp đất để vay tiền của Ngân hàng và
HD Bank không thẩm định thực tế, nên ông không đồng ý kháng cáo của ông N 1 và
không đồng ý kháng cáo của HD Bank.
Ông Nguyễn Văn B không đồng ý kháng cáo của ông N 1 và không đồng ý
kháng cáo của HD Bank.
Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến Hội đồng xét xử phúc thẩm và người tham
gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Đơn kháng cáo hợp
lệ. Về nội dung đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn
Ngọc N1 và đơn kháng cáo của Thương mại Cổ phần Phát triển Thành phố H đảm
bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết phúc thẩm.
Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn có một số đương sự vắng
mặt không lý do nên việc xét xử vẫn tiến hành theo quy định tại Điều 296 Bộ luật tố
tụng dân sự.
Vào thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 10/6/2020 thì người đại diện theo pháp luật
của HD Bank là ông Phạm Quốc T3 (bút lục 277) và người đại diện theo ủy quyền là
bà Trần Quế Sơn T4 (bút lục 276) nhưng Bản án sơ thẩm lại xác định người đại diện
theo pháp luật của HD Bank là ông Nguyễn Hữu Đ và người đại diện theo ủy quyền
là bà Đỗ Thị Thành Q (bút lục 292) là không đúng. Tuy nhiên, tại văn bản ủy quyền
số 1482/2020/QĐ-TGĐ ngày 08/4/2020 và văn bản ủy quyền ngày 11/11/2020, HD
Bank đã tiếp tục ủy quyền cho bà Đỗ Thị Thành Q đại diện và tại phiên tòa phúc
thẩm cũng không có khiếu nại về vấn đề này, nên việc sai sót của cấp sơ thẩm không
làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, vì vậy không nhất thiết
phải hủy Bản án sơ thẩm.
[2] Vào tháng 4/2018, Tòa án đã có thông báo cho bà Nguyễn Thị Thu H biết
thửa đất số 20 có tranh chấp (Thông báo số 185/TB-TLVA ngày 04/4/2018), nhưng
đến ngày 07/8/2018 bà Nguyễn Thị Thu H vẫn ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất
số 20 đang có tranh chấp cho ông Nguyễn Văn N 1. Do đó, tuy ông Nguyễn Ngọc N 1
trình bày khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 20 thì ông không biết
đất đang có tranh chấp, nhưng bên chuyển nhượng là bà Nguyễn Thị Thu H biết rõ
đất đang có tranh chấp, nên không có căn cứ để xác định việc chuyển nhượng đất là
ngay tình. Mặt khác, tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 12/6/2018 (bút lục
368, 369) thể hiện trên phần đất thửa số 20 đang tồn tại 01 nhà mồ và 04 ngôi mộ của
người thứ ba, nhưng việc chuyển nhượng đất lại không có ý kiến của chủ sở hữu hợp
73
8
pháp các vật kiến trúc trên đất, nên quyền sử dụng đất không thể chuyển giao cho
người nhận chuyển nhượng bình thường và đầy đủ quyền sử dụng của mình. Do đó,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do có đối tượng không thể thực
hiện được theo Điều 408 Bộ luật dân sự. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận
kháng cáo của ông Nguyễn Văn N1.
Tại Biên bản hòa giải ngày 10/6/2020 (bút lục 438) và tại phiên tòa sơ thẩm
ngày 19/5/2020 (bút lục 459) ông Nguyễn Văn N1 trình bày nếu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với bà Nguyễn Thị Thu H bị vô hiệu thì ông
cũng không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, mà ông sẽ khởi kiện
bà H ở vụ kiện khác, nên cấp sơ thẩm đã không xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu là
đúng quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự; Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay,
ông Nguyễn Văn N1 vẫn giữ nguyên ý kiến, nên cần được tôn trọng.
[3] Bà Nguyễn Thị Thu H thế chấp thửa đất số 21 để vay tiền của HD Bank,
được Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện Đ chứng nhận ngày 27/4/2017, tuy
nhiên trên thửa đất thế chấp (thửa số 21) đang tồn tại các căn nhà ở và các vật kiến
trúc khác của người thứ ba nhưng HD Bank không phát hiện và khi xác lập hợp đồng
thế chấp cũng không có ý kiến của chủ sở hữu hợp pháp các tài sản trên đất, nên việc
thế chấp không được coi là ngay tình; Đối với việc thế chấp thửa đất số 22 chưa được
Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện Đ chứng nhận, nên chưa đảm bảo thủ
tục. Trang bổ sung đăng ký thế chấp thửa đất số 22 có đóng dấu giáp lai của HD
Bank, không phải là xác nhận đăng ký thế chấp của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền nên không có căn cứ để chấp nhận ý kiến của HD Bank tại phiên tòa phúc
thẩm cho rằng có dấu giáp lai của HD Bank nên được xem là đã được đăng ký thế
chấp hợp pháp. Do vậy, không có căn cứ để áp dụng Điều 133 Bộ luật dân sự và mục
1 phần II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao
theo kháng cáo của HD Bank.
[4] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề
nghị bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ.
[5] Người kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về đình chỉ yêu cầu khởi kiện của
ông Nguyễn Tấn P; về việc vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa
20, 21, 22 giữa ông Nguyễn Văn B với ông Nguyễn Tấn L, hủy cập nhật, chỉnh lý hồ
sơ địa chính và hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Tấn L
đối với các thửa đất số 20, 21, 22; về việc hủy Hợp đồng ủy quyền giữa Nguyễn Tấn
L, Nguyễn Thị Dạ T với Nguyễn Thị H1 ngày 03/3/2017; về việc vô hiệu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 20, 21, 22 giữa ông Nguyễn Tấn L, bà
Nguyễn Thị Dạ T (do bà Nguyễn Thị H 1 đại diện) với bà Nguyễn Thị Thu H, hủy
chỉnh lý biến động trên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Tấn
L sang bà Nguyễn Thị Thu H đối với các thửa đất số 20, 21, 22; về việc hủy hợp
đồng ủy quyền giữa bà Nguyễn Thị Thu H với ông Lại Triệu L 2, hợp đồng ủy quyền
giữa ông Lại Triệu L2 với ông Trương Văn K đối với thửa 20; về việc ghi nhận ông
Huỳnh Tấn P và Nguyễn Văn B đã thỏa thuận giải quyết xong tiền trong hợp đồng
vay; về việc ghi nhận ông Nguyễn Tấn L, Nguyễn Ngọc N 1, bà Nguyễn Thị Thu H
không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu; về việc buộc bà Nguyễn Thị
Thu H trả cho HD Bank tiền vốn, tiền lãi đã vay; về chi phí đo đạc, thẩm định, định
74
9
giá; về án phí dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ do chậm thi hành án và nghĩa vụ thi hành
án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1.Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
2. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc N 1 và không chấp nhận
kháng cáo của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển Thành phố H; Giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh
L;
2.1. Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa số 20,
tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L giữa bà Nguyễn
Thị Thu H (ủy quyền cho ông Lại Triệu L 2 và ông Lại Triệu L2 ủy quyền lại cho ông
Trương Văn K) ký kết với bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Ngọc N 1, được
Văn phòng công chứng Đ công chứng số 24269, quyển số 08 TP/CC/HĐGD ngày
07/8/2018;
Hủy chỉnh lý biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất thửa số 20, tờ bản đồ số 01, ấp Giồng Lớn,
xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L sang ông Nguyễn Ngọc N1.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần phát triển
Thành phố H xử lý thửa đất số 21 và thửa đất số 22, đều thuộc tờ bản đồ số 01, ấp
Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L để thu hồi nợ đối với bà Nguyễn Thị
Thu H;
Hủy một phần Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 5559/17/HĐBĐ-016
ngày 27/4/2017 giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần phát triển Thành phố H với
bên thế chấp là bà Nguyễn Thị Thu H được công chứng số 4419, quyển số 9
TP/CC/HĐBĐ của Phòng Công chứng số 4, tỉnh L đối với thửa đất số 21, tờ bản đồ
số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L, đăng ký giao dịch bảo đảm
tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai tại huyện Đ, tỉnh L số thứ tự 2573, quyển
số 01;
Vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 5559/17/HĐBĐ-
016 ngày 27/4/2017 giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần phát triển Thành phố H
với bên thế chấp là bà Nguyễn Thị Thu H được công chứng số 4419, quyển số 9
TP/CC/HĐBĐ của Phòng Công chứng số 4, tỉnh L đối với thửa đất số 22, tờ bản đồ
số 01, ấp Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ, tỉnh L;
3. Án phí dân sự phúc thẩm:
3.1. Ông Nguyễn Ngọc N1 phải nộp án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng và
được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên
lai thu số 0000968 ngày 23/6/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh L;
3.2. Ngân hàng Thương mại Cổ phần phát triển Thành phố H phải nộp án phí
dân sự phúc thẩm 300.000 đồng và được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000
đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0000967 ngày 22/6/2020 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh L;
75
10
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về đình chỉ yêu cầu khởi kiện của
ông Nguyễn Tấn P; về việc vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa
20, 21, 22 giữa ông Nguyễn Văn B với ông Nguyễn Tấn L, hủy cập nhật, chỉnh lý hồ
sơ địa chính và hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Tấn L
đối với các thửa đất số 20, 21, 22; về việc hủy Hợp đồng ủy quyền giữa Nguyễn Tấn
L, Nguyễn Thị Dạ T với Nguyễn Thị H1 ngày 03/3/2017; về việc vô hiệu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 20, 21, 22 giữa ông Nguyễn Tấn L, bà
Nguyễn Thị Dạ T (do bà Nguyễn Thị H 1 đại diện) với bà Nguyễn Thị Thu H, hủy
chỉnh lý biến động trên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Tấn
L sang bà Nguyễn Thị Thu H đối với các thửa đất số 20, 21, 22; về việc hủy hợp
đồng ủy quyền giữa bà Nguyễn Thị Thu H với ông Lại Triệu L 2, hợp đồng ủy quyền
giữa ông Lại Triệu L2 với ông Trương Văn K đối với thửa 20; về việc ghi nhận ông
Huỳnh Tấn P và Nguyễn Văn B đã thỏa thuận giải quyết xong tiền trong hợp đồng
vay; về việc ghi nhận ông Nguyễn Tấn L, Nguyễn Ngọc N 1, bà Nguyễn Thị Thu H
không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu; về việc buộc bà Nguyễn Thị
Thu H trả cho HD Bank tiền vốn, tiền lãi đã vay; về chi phí đo đạc, thẩm định, định
giá; về án phí dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ do chậm thi hành án và nghĩa vụ thi hành
án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
76
11
77
12
78
13
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
Buổi thảo luận thứ ba
91
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG NGÃI Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 16/2019/DS-PT
Ngày: 19-3-2019
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/4/2017 được sửa đổi bổ sung ngày 06/6/2017, bản
tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N trình bày:
Giữa nguyên đơn và bị đơn ông Đoàn C, bà Trần Thị L có quan hệ họ hàng. Năm
2009 bị đơn cần tiền làm nhà cho con trai là anh Đoàn Tấn L1 nên thỏa thuận và lập
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, diện tích đất chuyển
nhượng là lô B trong phần đất của bị đơn khi được Nhà nước cấp đất tái định cư (Nhà
nước thu hồi đất của bị đơn và đã thông báo sẽ cấp đất tái định cư tại khu Làng Cá Sa
Huỳnh) với giá 90.000.000 đồng. Nguyên đơn đã trả đủ 90.000.000 đồng cho bị đơn.
Đến năm 2011, Nhà nước đã chỉ mốc giới vị trí đất cấp cho bị đơn là 03 lô đất
liền kề ở mặt tiền, bị đơn và anh Đoàn Tấn L1 yêu cầu phía nguyên đơn đưa thêm
30.000.000 đồng vì giá đất mặt tiền cao hơn, nguyên đơn đồng ý đưa tiếp 20.000.000
đồng, còn 10.000.000 đồng khi nào làm thủ tục chuyển nhượng xong thì đưa đủ. Lúc
này bị đơn đã chỉ vị trí cũng như mốc giới thửa đất chuyển nhượng cho phía nguyên
đơn.
Trong quá trình chờ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì vào ngày
05/6/2014 nguyên đơn có cho bà Nguyễn Thị M1, địa chỉ: Thôn LV, xã PT, huyện ĐP,
tỉnh Quảng Ngãi thuê diện tích đất này làm mặt bằng buôn bán và không ai có ý kiến
gì.
Đến tháng 10/2016 Nhà nước mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
93
2
bị đơn, nhưng phía bị đơn và anh Đoàn Tấn L1 chỉ đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thửa đất số 877 tờ bản đồ số 24 xã PT (Sau đây viết tắt là thửa 877) cho nguyên
đơn nhưng không làm thủ tục chuyển nhượng cho nguyên đơn, hiện nay nguyên đơn
đã xây móng đá chẻ trên thửa 877. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải làm thủ tục
chuyển nhượng thửa 877 tờ bản đồ số 24 xã PT, huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi cho nguyên
đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Đoàn C, bà Trần Thị L và người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ông Trương Quang T trình bày:
Bị đơn thừa nhận có việc thỏa thuận và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất như nguyên đơn trình bày (khi lập hợp đồng bị đơn chưa được Nhà nước cấp
đất), bị đơn đã nhận đủ 90.000.000 đồng và sau đó có nhận thêm số tiền 20.000.000
đồng, đây là tiền mà nguyên đơn nói đưa để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng
đất. Sau khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình bị đơn thì có nghe Nhà nước sẽ cấp
cho gia đình bị đơn 03 lô đất trong đó có 02 lô B và 01 lô A, trong hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ghi rõ lô B tự chọn. Khi lập hợp đồng, Nhà nước chưa cấp
đất cho bị đơn nên không có đất để giao cho nguyên đơn. Mặt khác, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực; đất là
của hộ gia đình bị đơn gồm nhiều thành viên nhưng chỉ có bị đơn thỏa thuận chuyển
nhượng là không đúng pháp luật. Vì vậy, bị đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng là các bên hoàn
trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Tấn L1 trình bày:
Anh là con của bị đơn, anh thống nhất với lời trình bày của người đại diện theo
ủy quyền của bị đơn. Anh có ý kiến bổ sung là anh đứng ra bán đất cùng với cha mẹ
do lúc đó quá khó khăn, còn việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên
đơn là do bị đe dọa. Anh thừa nhận đổ đá chẻ lên thửa đất đang tranh chấp để làm quán
cho cha mẹ nhưng do chưa sử dụng nên anh có bán cho nguyên đơn với số tiền là
6.450.000 đồng. Việc nguyên đơn tự ý xây dựng móng đá chẻ thì ông M có lên nói
nhưng anh không đồng ý và có ngăn cản không cho xây dựng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Tấn N1, chị Đoàn Thị Thu V,
chị Đoàn Thị Mỹ N2 trình bày:
Các anh, chị có chung hộ khẩu với cha mẹ khi Nhà nước thu hồi đất cho đến nay,
các anh, chị có quyền trong khối tài sản chung của gia đình. Việc cha mẹ các anh chị
và anh L1 tự ý đứng ra chuyển nhượng quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ gia
đình mà không hỏi ý kiến của các anh, chị là xâm phạm đến quyền lợi của các anh, chị
94
3
nên các anh, chị không đồng ý. Các anh, chị yêu cầu tuyên bố giấy chuyển nhượng đất
thổ cư ngày 10/8/2009 vô hiệu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M1 trình bày:
Vào năm 2014, bà có đến nhà bị đơn hỏi thuê thửa 877 để mở quán nước, nhưng
bị đơn nói đã bán đất cho nguyên đơn rồi nên đến nguyên đơn để hỏi thuê. Bà đã thỏa
thuận với nguyên đơn thuê đất mở quán, trả tiền hàng năm; bà có thuê bị đơn là ông C
tới dựng quán cho bà. Sau khi hòa giải ở xã thì bà có thấy anh L1 đổ đá chẻ trên thửa
đất, khi nguyên đơn xây móng nhà được hai ngày thì anh L1 đến không cho xây. Bà
không có ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng khi giao đất cho ai thì bà
sẽ tự dỡ quán và không có yêu cầu gì.
Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2017/DS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2017 của Tòa
án nhân dân huyện Đức Phổ tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009. Buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển
nhượng thửa 877 cho nguyên đơn.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn giải quyết về chi phí tố tụng, án phí và tuyên quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 02/10/2017, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đoàn
Tấn L1, Đoàn Tấn N1, Đoàn Thị Thu V, Đoàn Thị Mỹ N2 có đơn kháng cáo: Yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại. Tại phiên tòa phúc thẩm,
những người kháng cáo thay đổi nội dung kháng cáo, yêu cầu Hội đồng xét xử sửa bản
án sơ thẩm, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 vô
hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Ngày 05/10/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ có quyết
định kháng nghị số 1317/QĐKNPT-VKS-DS: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm, không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản
tố của bị đơn, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các nguyên
đơn và bị đơn vô hiệu và các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tại phiên
tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị.
Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2018/DS-PT ngày 01/02/2018 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi tuyên xử: Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2017/DS-ST ngày 21
tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ; không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
95
4
Ngày 19/9/2018, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2018/KN-DS ngày 19/9/2018: Đề nghị hủy Bản án
dân sự phúc thẩm số 24/2018/DS-PT ngày 01/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm lại.
Quyết định giám đốc thẩm số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên xử: Chấp nhận Quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2018/KN-DS ngày 19/9/2018 của Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2018/DS-
PT ngày 01/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, giao hồ sơ cho Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tại phiên tòa phúc
thẩm:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đơn kháng cáo của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm
trong thời hạn luật định là hợp lệ.
Về nội dung: Nội dung hợp đồng chuyển nhượng đất là Giấy chuyển nhượng đất
thổ cư ngày 10/8/2009 đã được thực hiện bằng việc nguyên đơn giao 90.000.000 đồng
cho phía bị đơn. Sau đó vì bị đơn không được cấp đất tái định cư là lô B nên các bên
thay đổi thỏa thuận thành chuyển nhượng lô A với giá 120.000.000 đồng, phía nguyên
đơn đưa tiếp 20.000.000 đồng, còn 10.000.000 đồng sẽ giao khi hoàn tất thủ tục chuyển
nhượng.
Căn cứ lời trình bày của ông Phạm Văn Hai (Bút lục 190) và lời trình bày của bà
Nguyễn Thị M1 (Bút lục 118) có cơ sở xác định bị đơn đã giao đất và giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nguyên đơn đã xây móng nhà và cho bà M1 thuê
làm quán buôn bán. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên bị đơn nên bị đơn có
quyền chuyển nhượng mà không cần có ý kiến của các thành viên khác trong hộ gia
đình.
Hợp đồng vi phạm về hình thức nhưng đang được thực hiện nên được áp dụng
Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết, theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân
sự năm 2015 thì hợp đồng này được công nhận hiệu lực. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm không
buộc nguyên đơn trả tiếp cho bị đơn 10.000.000 đồng là thiếu sót.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 289, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật
tố tụng dân sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi rút kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ;
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
96
5
quan; sửa bản án sơ thẩm, công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng thửa 877,
nguyên đơn có nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn 10.000.000 đồng, nguyên đơn được
quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa 877.
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
rút toàn bộ Quyết định kháng nghị số 1317/QĐKNPT-VKS-DS ngày 05/10/2017 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ. Vì vậy, đình chỉ xét xử phúc thẩm
một phần vụ án mà Viện kiểm sát đã rút kháng nghị là phù hợp với quy định tại Điều
284 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, các đương sự trong vụ án không ai
yêu cầu áp dụng thời hiệu nên không xem xét áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy
định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Bị đơn ông C, bà L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh L1 thừa
nhận, vì biết thông tin gia đình bị đơn bị thu hồi đất sẽ được cấp ba lô đất tái định cư,
trong đó có một lô A và hai lô B, nên ngày 10/8/2009 nguyên đơn ông M, bà N cùng
phía bị đơn ông C, bà L và anh Đoàn Tấn L1 thỏa thuận và lập “Giấy chuyển nhượng
đất thổ cư” (Bút lục 27), nội dung thỏa thuận là bị đơn và anh L1 chuyển nhượng cho
nguyên đơn một lô đất thuộc lô B, diện tích 5m x 20m (tự chọn khi Nhà nước cấp đất)
trong phần đất của gia đình bị đơn sẽ được cấp tái định cư với giá 90.000.000 đồng,
anh L1 có trách nhiệm làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giao đất trên thực
địa cho nguyên đơn, các bên tham gia giao dịch đều thống nhất ký tên; bị đơn đã giao
đủ 90.000.000 đồng cho phía nguyên đơn. Đây là những tình tiết không phải chứng
minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Phía bị đơn không thừa nhận có việc thay đổi thỏa thuận chuyển nhượng từ
lô B sang lô A với giá 120.000.000 đồng như nguyên đơn trình bày vì đến năm 2016
bị đơn mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 20.000.000 đồng phía bị đơn
nhận thêm chỉ để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng tại phiên tòa phúc
thẩm anh L1 thừa nhận năm 2011 phía bị đơn đã biết vị trí ba lô đất gia đình bị đơn
được cấp tái định cư trên bản đồ, không có lô B như thỏa thuận với nguyên đơn, trong
03 lô đất này có thửa 877; bên cạnh đó, tại Biên bản lấy lời khai của đương sự (Bút lục
192) ông C trình bày ông đã làm nhà trên 01 lô đất tái định cư từ năm 2013. Như vậy,
tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng phía bị đơn đã biết vị trí
các lô đất tái định cư được Nhà nước cấp.
97
6
[5] Căn cứ thực tế sử dụng thửa 877, lời khai người thuê đất là bà Nguyễn Thị
M1, “Giấy thỏa thuận cho thuê đất” (Bút lục 27); biên bản lấy lời khai ông Đoàn C
ngày 25/7/2017 (bút lục 192) chứng tỏ phía bị đơn đã giao thửa 877 và giấy chứng
nhận quyền sử dụng thửa đất này cho bị đơn, bị đơn đã cho bà Mai thuê đất để xây
dựng quán, ông C cũng đến làm công xây dựng quán cho bà Mai và không có tranh
chấp gì; chính anh L1 đã đổ đá chẻ trên thửa 877 và bán cho nguyên đơn để nguyên
đơn xây móng nhà.
[6] Về thời hạn thực hiện giao dịch được hai bên xác định là từ khi xác lập giao
dịch cho đến khi phía bị đơn thực hiện xong nghĩa vụ sang tên trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nên đây là giao dịch đang được thực hiện. Về nội
dung, hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 nên áp dụng Bộ
luật dân sự năm 2015 là đúng với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự
năm 2015. Như vậy, tuy thời điểm các bên thỏa thuận việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy viết tay thể hiện nội dung
thỏa thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay đổi thỏa thuận bằng lời nói thành
chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng việc giao thêm tiền, giao
đất, giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời điểm giao giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đang đứng tên bị đơn là đã đủ điều kiện để chuyển nhượng. Theo quy định
tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 thì tuy giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình thức được quy định tại
khoản 1 Điều 502 Bộ luật dân sự năm 2015 nhưng bên nguyên đơn đã thực hiện giao
cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên
đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao dịch được công nhận
hiệu lực. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực của giao dịch là đúng pháp luật nhưng
buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa 877 cho nguyên đơn là không cần
thiết, khi Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch thì nguyên đơn liên hệ cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo bản án đã có hiệu lực
pháp luật.
[7] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh chị Đoàn Tấn L1,
Đoàn Tấn N1, Đoàn Thị Thu V, Đoàn Thị Mỹ N2 là thành viên trong gia đình bị đơn
kháng cáo cho rằng việc cha mẹ các anh, chị chuyển nhượng quyền sử dụng đất không
được sự đồng ý của các anh chị, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
anh chị thì thấy rằng: Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thửa 877 là đất tái
định cư được cấp cho bị đơn, không phải cấp cho hộ gia đình nên bị đơn có quyền
chuyển nhượng, việc chuyển nhượng thửa 877 của bị đơn không vi phạm điều cấm của
pháp luật như bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày; trường
98
7
hợp thửa 877 là tài sản chung của hộ gia đình thì bị đơn chỉ chuyển nhượng một trong
ba thửa đất tái định cư nên vẫn thuộc phạm vi quyền tài sản của bị đơn trong khối tài
sản chung của hộ gia đình.
[8] Từ những nhận định trên, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông C, bà
L và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh, chị L1, N1, V, N2.
[9] Tuy nhiên, theo thỏa thuận chuyển nhượng thì nguyên đơn còn phải trả cho
bị đơn 10.000.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng nhưng không buộc
phía nguyên đơn tiếp tục trả số tiền còn lại cho bị đơn là thiếu sót, cần sửa bản án sơ
thẩm về nội dung này.
[10] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn tự nguyện để cho quán nước tạm có
diện tích 25m2 dựng bằng cây bạch đàn, mái lợp tôn sắt, nền láng xi măng của bà
Nguyễn Thị M1 được tiếp tục tồn tại trên đất trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như nhận định trên thì nguyên đơn là người sử dụng
đất hợp pháp nên ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn.
[11] Đối với phần móng đá nguyên đơn đã xây dựng trên thửa đất số 877, tờ bản
đồ số 24 xã Phổ Thạnh có giá trị 9.400.000 đồng, do nguyên đơn mua vật liệu và tự
xây dựng nên thuộc quyền sở hữu, sử dụng của nguyên đơn.
[12] Các phần khác của bản án sơ thẩm xét xử phù hợp với quy định pháp luật
được giữ nguyên.
[13] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có căn cứ,
đúng pháp luật nên được chấp nhận.
[14] Bị đơn là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí, vì vậy miễn án phí dân
sự phúc thẩm cho bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh, chị L1, N1, V, N2 không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 148 Bộ luật
dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 148, Điều 289, khoản 2 Điều 308,
Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 106 Luật Đất đai năm 2003; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
99
8
Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần vụ án đối với Quyết định kháng nghị số
1317/QĐKNPT-VKS-DS ngày 05/10/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
huyện Đức Phổ.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Đoàn C, bà Trần Thị L và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh, chị Đoàn Tấn L1, Đoàn Tấn N1,
Đoàn Thị Thu V, Đoàn Thị Mỹ N2.
Tuyên xử: Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 22/2017/DS-ST ngày 21 tháng
9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Sĩ M và bà Phùng Thị
N;
Công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số
877, tờ bản đồ số 24, xã Phổ Thạnh giữa ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N với ông Đoàn
C, bà Trần Thị L. Ông M, bà N có quyền sử dụng thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24, xã
Phổ Thạnh. Ông M, bà N có nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24, xã
PT, huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi.
Ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N phải có nghĩa vụ thanh toán tiếp cho ông Đoàn
C, bà Trần Thị L 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
2. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Đoàn C, bà Trần Thị L và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Tấn L1, anh Đoàn Tấn N1, chị
Đoàn Thị Thu V, chị Đoàn Thị Mỹ N2 về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N về việc để quán
nước tạm có diện tích 25m2 dựng bằng cây bạch đàn, mái lợp tôn sắt, nền láng xi măng
của bà Nguyễn Thị M1 được tiếp tục tồn tại trên thửa đất số 877, tờ bản đồ số 24 xã
Phổ Thạnh.
4. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N về việc tự chịu chi
phí xem xét thẩm định tại chỗ.
5. Về án phí:
5.1. Ông Võ Sĩ M, bà Phùng Thị N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn
trả 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí ông M, bà N đã nộp theo biên
lai số AA/2014/003747 ngày 07/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức
Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
5.2. Ông Đoàn C, bà Trần Thị L được miễn án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.
5.3. Các anh, chị Đoàn Tấn L1, Đoàn Tấn N1, Đoàn Thị Thu V, Đoàn Thị Mỹ
N2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho mỗi người 300.000 đồng
100
9
(Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo các biên lai thu tiền số
AA/2014/0003856, AA/2014/0003859, AA/2014/0003857, AA/2014/0003858 cùng
ngày 19/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
6. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải
thi hành án chậm thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án tương ứng
với thời gian chậm thi hành án theo mức lãi suất do bên được thi hành án và bên phải
thi hành án thỏa thuận; nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2
Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Lê Thị Mỹ Giang
101
10
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
Buổi thảo luận thứ tư
118
119
120
121
122
123
124
125
126
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
10/12 thành viên tham gia xét xử, do ông Võ Văn Cường – Phó Chánh án
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh làm chủ tọa phiên tòa, theo
ủy nhiệm của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Trung – Thẩm tra viên.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hừng – Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “Tranh
chấp hợp đồng tín dụng” giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Liên doanh V.
Địa chỉ: Số 01, phố Y, quận H, thành phố H.
2. Bị đơn: Công ty PT.
Địa chỉ: Lô 1-NX7B, đường Tạo Lực 2, Khu phố 2, phường P, thành phố
T, tỉnh B.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Trần T, sinh năm 1941.
Địa chỉ: Số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố H.
3.2 Bà Trần Thị H, sinh năm 1947.
3.3 Bà Trần Thị T, sinh năm 1980.
Cùng địa chỉ: Số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố H.
3.4 Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1971.
3.5 Ông Trương Minh H, sinh năm 1964.
Cùng địa chỉ: Số 46/5 Đông A, phường Đ, thị xã D, tỉnh B.
127
2
128
3
Thành phố H ngày 19/9/2014; tài sản bảo đảm là Quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở tại số 144/53-TCH18, Khu phố 2, phường T, Quận Z, Thành phố
H, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở số 4253 do Ủy ban nhân dân Quận
Z, Thành phố H cấp ngày 05/02/2002.
- Hợp đồng thế chấp bất động sản số 120/2014/HĐTC ngày 23/9/2014
được ký kết với bà Nguyễn Thị X (giá trị tài sản 600.000.000 đồng), được công
chứng tại Phòng Công chứng số 2 tỉnh B ngày 23/9/2014 và đăng ký giao dịch
bảo đảm tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh B ngày 23/9/2014; tài
sản bảo đảm là Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thửa đất số 2108, tờ
bản đồ số 4DH1, khu phố Đông A, phường Đ, thị xã D, tỉnh B theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CH 05913 do Ủy ban nhân dân thị xã D cấp ngày
11/4/2013.
- Hợp đồng thế chấp số 07/2013/HĐTC ngày 22/3/2013 được ký kết giữa
bên thế chấp là Công ty PT với Ngân hàng (giá trị tài sản 1.880.000.000 đồng),
được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản tại
Thành phố H ngày 28/3/2013; tài sản bảo đảm bao gồm hệ thống máy móc thiết
bị tại nhà máy sản xuất theo họp đồng mua bán máy móc thiết bị số
060812/NTP-PT ngày 06/8/2012 và các hóa đơn giá trị gia tăng số 0000030;
0000031 ngày 27/2/2013, số 0000098 ngày 04/02/2013, chi tiết: Máy bào hai
mặt; máy cắt ngang; máy rong lưỡi dưới; máy rong lưỡi trên; máy nhám thùng
1,3; máy bào 4 mặt 07 trục; máy đánh finger; máy ghép dọc; máy ghép ngang;
máy bơm hơi (02 bộ); máy cắt phay hai đầu; máy mài tự động; máy mài dao bào
600mm và xe nâng 3,5 tấn.
Sau khi Ngân hàng giải ngân các khoản vay cho Công ty PT thì đến tháng
4/2015 phía Công ty PT đã vi phạm về thời hạn thanh toán lãi và gốc cho Ngân
hàng. Khi Công ty PT không thanh toán nợ gốc và lãi cho Ngân hàng thì phía
Ngân hàng có mời những người bảo lãnh lên để làm việc và bà Dương Thúy G,
ông Nguyễn Huỳnh Nguyên V đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền
1.600.000.000 đồng và lấy tài sản thế chấp về. Trong quá trình giải quyết vụ án,
bà Trần Thị T đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền là 700.000.000 đồng và
Ngân hàng đã giải chấp tài sản thế chấp đối với bà T. Ngoài ra, bà Nguyễn Thị
X cũng đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền 600.000.000 đồng và Ngân
hàng cũng đã giải chấp đối với phần tài sản của bà X. Đối với các tài sản mà
phía Công ty PT thế chấp bảo lãnh cho khoản vay theo Hợp đồng thế chấp số
07/2013/HĐTC ngày 22/3/2013, qua xác minh hiện nay không biết ở đâu do
Công ty đã di chuyển tài sản đi nơi khác. Nay, Ngân hàng yêu cầu:
1. Yêu cầu Công ty PT phải thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền còn
thiếu nợ tạm tính đến ngày 05/9/2019 như sau:
- Tiền Việt Nam đồng là 3.220.429.361 đồng nợ gốc, lãi là 2.014.997.218
đồng;
- Tiền ngoại tệ là 55.100 USD nợ gốc, lãi là 14.344,52 USD.
2. Yêu cầu Công ty PT tiếp tục phải trả lãi theo lãi suất đã thỏa thuận
129
4
trong hợp đồng tín dụng đã ký cho Ngân hàng từ ngày 05/9/2019 đến khi trả
xong nợ.
3. Trường hợp phía Công ty PT không thanh toán hoặc thanh toán không
đầy đủ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành
phố H, theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số
3859/20002, do Ủy ban nhân dân thành phố H cấp ngày 05/02/2002 để thu hồi
nợ.
* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Công ty PT không cử người đại diện
hợp pháp đến Tòa án để làm việc và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến cũng
như quan điểm của mình nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của Công ty PT
được.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần T trình bày:
Nguyên vào ngày 05/6/2014, ông Trần T, bà Trần Thị H có ký Hợp đồng
thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC với Ngân hàng V, được Phòng công
chứng số 1 Thành phố H chứng nhận số 012522 vào ngày 06/6/2014. Trong hợp
đồng nêu trên, tại phần “Cơ sở kết lập hợp đồng” ông T, bà H và Ngân hàng V
đã thống nhất thỏa thuận rằng:
“Các quan hệ trong hợp đồng này được điều chỉnh và cho phép bởi các
văn bản pháp luật và các văn bản sau:
- Các văn bản pháp luật sau:
+ Bộ luật dân sự năm 2005; Luật đất đai năm 2003; Luật các tổ chức - tín
dụng năm 2010;
+ Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm;
Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao
dịch bảo đảm; Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
+ Hợp đồng tín dụng hạn mức số: 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 được
ký giữa Ngân hàng và Công ty PT; Các văn bản có liên quan khác”.
Đồng thời, tại khoản 2, Điều 1 của hợp đồng nêu trên, đã thỏa thuận như
sau:
“ Phạm vi nghĩa vụ bảo đảm:
Bên thế chấp đồng ý dùng toàn bộ tài sản thế chấp được mô tả tại Điều 2
Hợp đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ phát sinh
trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng
với Bên vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp theo quy
đinh tại Điều 3 Hợp đồng này, bao gồm nhưng không giới hạn các nghĩa vụ sau:
Nợ gốc; nợ lãi; lãi phạt quá hạn; phí; khoản phạt; khoản bồi thường thiệt hại
(nếu có) theo hợp đồng tín dụng, hợp đồng cấp bảo lãnh”.
Căn cứ Hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 và
130
5
Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 nêu trên,
Ngân hàng đã ký kết các Hợp đồng tín dụng cụ thể với Công ty PT và giải ngân
hạn mức tín dụng 1,5 tỷ đồng cụ thể như sau:
- Giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng cụ thể số
106/2014/HĐTDCT ngày 11/6/2014. Căn cứ hợp đồng tín dụng cụ thể này,
Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty PT số tiền 33.986,31 USD. Khoản nợ này,
Công ty PT đã thanh toán và được Ngân hàng tất toán vào ngày 12/11/2014.
- Giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng cụ thể số
65/2014/HĐTDCT ngày 15/4/2014. Căn cứ hợp đồng tín dụng cụ thể này, Ngân
hàng đã giải ngân cho Công ty PT số tiền 240.000.000 đồng. Khoản nợ này,
Công ty PT đã thanh toán và được Ngân hàng tất toán vào ngày 15/10/2014.
- Giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng cụ thể số
73/2014/HĐTDCT ngày 25/4/2014. Căn cứ hợp đồng tín dụng cụ thể này, Ngân
hàng đã giải ngân cho Công ty PT số tiền 241.000.000 đồng. Khoản nợ này,
Công ty PT cũng đã thanh toán và được Ngân hàng tất toán vào ngày
25/10/2014.
Ngoài 3 hợp đồng tín dụng cụ thể chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Hợp
đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 nêu trên thì không
còn hợp đồng tín dụng cụ thể nào khác.
Căn cứ thỏa thuận tại cơ sở kết lập hợp đồng và khoản 2 Điều 1 của Hợp
đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 thì ông T, bà H
chỉ chịu trách nhiệm bảo đảm “thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ phát
sinh trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân
hàng với Bên vay” mà các hợp đồng tín dụng cụ thể đó chịu sự điều chỉnh và
cho phép bởi Hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014.
Nghĩa là, ông T và bà H chỉ chịu trách nhiệm bảo đảm đối với các khoản nợ
được giải ngân trên cơ sở chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Hợp đồng tín dụng
hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014, cụ thể là các hợp đồng tín dụng cụ
thể số 106/2014/HĐTDCT ngay 11/6/2014; số 65/2014/HĐTDCT ngày
15/4/2014 và số 73/2014/HĐTDCT ngày 25/4/2014. Tuy nhiên, theo sự xác
nhận của phía Ngân hàng thì Công ty PT đã thanh toán tất cả các khoản nợ theo
các hợp đồng tín dụng cụ thể nêu trên và phía Ngân hàng cũng đã tất toán các
hợp đồng này vào ngày cuối cùng là 25/11/2014. Do vậy, căn cứ theo quy định
tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 về việc thế chấp tài sản chấm dứt
khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt thì Hợp đồng thế chấp bất
động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã chấm dứt, hết hiệu lực từ ngày
25/11/2014. Tuy nhiên, Ngân hàng V đã không thanh lý hợp đồng thế chấp này,
trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
tại số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố H có số hồ sơ gốc:
3859/2002 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp ngày 05/02/2002 cho ông T,
bà H là vi phạm pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của ông T, bà H.
131
6
Ngày 17/6/2014, Ngân hàng và Công ty PT ký kết Phụ lục 01 sửa đổi, bổ
sung hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014, nâng hạn
mức tín dụng từ 1,5 tỷ đồng lên 5 tỷ đồng. Ngày 23/09/2014, Ngân hàng và
Công ty PT ký kết Phụ lục 02 sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng hạn mức số
60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014, nâng hạn mức tín dụng từ 1,5 tỷ đồng lên 10 tỷ
đồng. Tuy nhiên, giữa Ngân hàng và ông T, bà H không hề ký Phụ lục hợp đồng
thế chấp nào để sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày
06/6/2014 về phạm vi bảo đảm của ông T, bà H. Do vậy, phạm vi bảo đảm của
ông T, bà H vẫn là các khoản nợ được giải ngân trên cơ sở chịu sự điều chỉnh và
cho phép bởi Hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014
chứ không bảo đảm cho các khoản nợ được giải ngân theo các hợp đồng tín
dụng cụ thể chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Phụ lục 01, Phụ lục 02 nêu trên.
Tương tự, ngày 23/4/2015, Ngân hàng và Công ty PT ký kết Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD, xác định hạn mức tín dụng tối đa mà Ngân
hàng cho Công ty PT vay là 10 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau khi ký Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD ngày 23/4/2015 nêu trên, giữa Ngân hàng và
ông T, bà H cũng không hề ký Phụ lục hợp đồng thế chấp nào để sửa đổi, bổ
sung hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 về phạm vi bảo đảm
của ông T, bà H. Do vậy, phạm vi bảo đảm của ông T, bà H vẫn là các khoản nợ
được giải ngân trên cơ sở chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Hợp đồng tín dụng
hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 vốn dĩ đã chấm dứt và hết hiệu lực
từ ngày 25/11/2014, chứ không bảo đảm cho các khoản nợ được giải ngân theo
các hợp đồng tín dụng; cụ thể chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD ngày 23/04/2015 nêu trên.
Nhận thấy, hiện nay Ngân hàng khởi kiện Công ty PT, yêu cầu Công ty
PT phải trả sổ tiền nợ gốc gồm: Tiền Việt Nam đồng là 3.220.429.361 đồng nợ
gốc, tiền lãi là 1.921.228.611 đồng; tiền ngoại tệ USD là 55.100 USD nợ gốc, lãi
là 13.637,40 USD. Các nghĩa vụ trả nợ này đều phát sinh theo các hợp đồng tín
dụng cụ thể được ký kết chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Phụ lục 02 của Hợp
đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HDTD ngày 23/9/2014 và Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD ngày 23/4/2015.
Do nghĩa vụ trả nợ gốc, nợ lãi mà Ngân hàng đang khởi kiện Công ty PT
nêu trên không liên quan đến nghĩa vụ bảo đảm của ông T, bà H nhưng Ngân
hàng yêu cầu Tòa án cho xử lý tài sản thế chấp của của ông T, bà H để thu hồi
số nợ gốc, nợ lãi nêu trên là không có căn cứ, không đúng quy định của pháp
luật. Vì vậy, ông T, bà H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
Ngân hàng Liên doanh V.
Vì các lẽ trên, ông T yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng thế chấp số
63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 giữa ông T, bà H và Ngân hàng chấm dứt hiệu
lực, buộc Ngân hàng phải giải chấp, trả lại cho ông T, bà H bản chính Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 40, đường Đ,
Phường 13, quận T, Thành phố H có số hồ sơ gốc: 3859/2002 do Ủy ban nhân
dân Thành phố H cấp ngày 05/02/2002. Đối với việc Ngân hàng khởi kiện yêu
132
7
133
8
Công ty K có cho Công ty KT thuê cả máy móc để làm gia công gỗ. Tuy nhiên,
thực tế thì hoạt động tại nhà xưởng là một pháp nhân khác là Công ty PT. Khi
thuê thì phía Công ty K đã trang bị toàn bộ máy móc, thiết bị ngành gỗ tại nhà
xưởng của mình và cho Công ty KT thuê. Ngoài ra, Công ty PT không trang bị
thêm máy móc, dụng cụ gì tại nhà xưởng đã thuê của Công ty K. Sau đó, ông Lê
Việt T tự ý ngừng sản xuất và trả lại nhà xưởng, máy móc cho Công ty K, hiện
nay nhà xưởng này Công ty K đã cho thuê lại còn các máy móc thì Công ty K đã
tháo dỡ để bảo trì. Các tài sản mà phía Công ty thế chấp cho Ngân hàng thì
Công ty K không quản lý vì phía Công ty PT cũng không đem về lắp đặt tại nhà
xưởng của Công ty K. Đối với tranh chấp giữa các bên thì phía Công ty K không
có ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2019/KDTM-ST ngày 12/9/2019, Tòa án
nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương quyết định:
Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Liên doanh
V đối với yêu cầu xử lý tài sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại
số 144/53-TCH18, Khu phố 2, phường T, Quận Z, Thành phố H, theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ở số 4253 do Ủy ban nhân dân Quận Z, Thành
phố H cấp ngày 05/02/2002 mang tên bà Trần Thị T và Quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở thửa đất số 2108, tờ bản đồ số 4DH1, khu phố Đông A,
phường Đ, thị xã D, tỉnh B, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH
05913 do Ủy ban nhân dân thị xã D cấp ngày 11/4/2013 mang tên bà Nguyễn
Thị X.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Liên
doanh V về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” với bị đơn là Công ty PT.
Buộc Công ty PT phải trả cho Ngân hàng Liên doanh V số tiền nợ gốc và
lãi phát sinh tính đến ngày 05/9/2019 là:
- Tiền Việt Nam: 5.235.426.579 đồng (trong đó nợ gốc là 3.220.429.361
đồng và nợ lãi là 2.014.997.218 đồng).
- Tiền Ngoại tệ: 69.444,52 USD (trong đó nợ gốc là 55.100 USD và nợ lãi
là 14.344,52 USD).
Công ty PT tiếp tục phải trả lãi phát sinh cho Ngân hàng Liên doanh V từ
ngày 05/9/2019 cho đến khi trả xong nợ theo lãi suất thỏa thuận trong các hợp
đồng tín dụng đã ký.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Liên doanh V về việc
xử lý tài sản thế chấp là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 40,
đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố H, theo Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở có số hồ sơ gốc: 3859/2002 do Ủy ban nhân
dân Thành phố H cấp ngày 05/02/2002 mang tên ông Trần T; bà Trần Thị H.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Trần T về việc “Tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất” đối với nguyên đơn là Ngân hàng Liên doanh V.
134
9
135
10
PT ngày 26/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, đề nghị Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám
đốc thẩm hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và giữ nguyên Bản án
kinh doanh thương mại sơ thẩm số 11/2019/KDTM-ST ngày 12/9/2019 của Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh đề nghị Ủy ban Thẩm phán chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Vào các năm 2013 và 2014, giữa Ngân hàng V và Công ty PT đã ký
kết các hợp đồng tín dụng như sau:
- Hợp đồng tín dụng hạn mức số 15/2013/HĐTD ngày 22/3/2013 với hạn
mức cho vay là 1.500.000.000 đồng.
- Hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 với hạn
mức vay 1.500.000.000 đồng, số tiền này bao gồm phần dư nợ 540.000.000
đồng mà Doanh nghiệp đang còn dư nợ tại Ngân hàng.
- Phụ lục số 60/2014/PL01 ngày 17/6/2014 nâng hạn mức cho vay lên
5.000.000.000 đồng, số tiền này bao gồm phần dư nợ 780.000.000 đồng và
33.986,31 USD mà Doanh nghiệp đang còn dư nợ tại Ngân hàng.
- Phụ lục số 60/2014/PL02 ngày 23/9/2014 nâng hạn mức cho vay lên
thành 10.000.000.000 đồng, số tiền này bao gồm phần dư nợ 481.000.000 đồng
và 209.096,78 USD mà Doanh nghiệp đang còn dư nợ tại Ngân hàng.
- Hợp đồng tín dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD ngày 23/4/2015 với hạn
mức tín dụng tối đa 10.000.000.000 đồng, số tiền này bao gồm phần dư nợ
4.305.000.000 đồng và 115.448,81 USD mà Doanh nghiệp đang còn dư nợ tại
Ngân hàng.
Theo phía Ngân hàng thì nhiều hợp đồng tín dụng cụ thể phía Công ty PT
đã tất toán, nhưng đối với các hợp đồng tín dụng cụ thể sau đây thì Công ty PT
chưa thanh toán cho Ngân hàng gồm:
- Giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng cụ thể số
305/2014/HĐTDCT ngày 10/12/2014. Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty PT
số tiền 17.800 USD;
- Giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng cụ thể số
309/2014/HĐTDCT ngày 12/12/2014. Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty PT
số tiền 37.300 USD;
- Giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng cụ thể số
328/2014/HĐTDCT ngày 29/12/2014. Ngân hàng đã giải ngân cho Công ty PT
số tiền 2.000.000.000 đồng;
- Giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng cụ thể số
136
11
137
12
19/4/2019 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận chữ ký và chữ
viết ông Trần T và bà Trần Thị H trong “Bản cam kết thế chấp tài sản để bảo
lãnh vay vốn ngân hàng” ngày 05/6/2014 không phải chữ ký, chữ viết thật của
ông T, bà H. Như vậy, ông T, bà H không cam kết dùng tài sản của mình để đảm
bảo nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty PT đối với khoản nợ của Ngân hàng với
hạn mức là 5.000.000.000 đồng. Đối với hạn mức vay 10.000.000.000 đồng,
phía Ngân hàng cũng không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh ông T, bà H
đồng ý ký nâng hạn mức vay tín dụng này.
[4]. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa
nhận Công ty PT đã tất toán các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số
60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào các ngày 15/10/2014; ngày
25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H
đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 và
khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu
được xử lý tài sản thế chấp của ông T, bà H để thu hồi nợ là không có cơ sở. Do
hợp đồng thế chấp đã chấm dứt nên Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả bản
chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông T,
bà H. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên Hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày
06/6/2014 đã ký giữa ông Trần T, bà Trần Thị H; Ngân hàng V và Công ty PT
chấm dứt hiệu lực. Ngân hàng phải trả lại cho ông T, bà H bản chính Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại số 40, đường Đ,
Phường 13, quận T, Thành phố H số hồ sơ gốc: 3859/2002 do Ủy ban nhân dân
Thành phố H cấp ngày 05/02/2002 mang tên ông Trần T, bà Trần Thị H là có
căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng
cáo của Ngân hàng V, tuyên hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày
06/6/2014 đã ký giữa ông Trần T, bà Trần Thị H; Ngân hàng V và Công ty PT
có hiệu lực pháp luật. Ngân hàng V có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là
quyền sở hữu nhà ở tại số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố H do
ông Trần T, bà Trần Thị H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 343 và Điều 345 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
1. Chấp nhận Kháng nghị số 10/KNGĐT-VKS-KDTM ngày 07/12/2020
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 20/2020/KDTM-PT
ngày 26/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và giữ nguyên Bản án
kinh doanh thương mại sơ thẩm số 11/2019/KDTM-ST ngày 12/9/2019 của Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đối với vụ án “Tranh
chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng Liên doanh V với bị đơn
Công ty PT.
138
13
3. Quyết định giám đốc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra
quyết định.
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TỈNH QUẢNG NINH
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Vương
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Thanh Hương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Phạm Công Đông - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 6 năm 2019, tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số 23/2019/TLPT-DS ngày 11 tháng 3 năm 2019 về
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
160
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 29/2019/QĐPT-DS ngày
17/4/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 24 ngày 10/5/2019 và Quyết định hoãn
phiên tòa số 35 ngày 28/5/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Vũ Đình P; Địa chỉ: phường H H, thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Kim A; Địa chỉ: quận Ngô
Quyền, thành phố Hải Phòng, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thúy
H, Luật sư - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.
2. Bị đơn: Ông Trần Xuân I ; Địa chỉ: phường H H, thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thúy L; Địa chỉ: phường H H,
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Vũ Đình P và đại diện
theo ủy quyền của ông Vũ Đình Pg là bà Nguyễn Thị Kim A trình bày:
Do có mối quan hệ làm ăn quen biế t với ông Trần Xuân I từ năm 2008, ông P
biết được ông I có người thân ở Mỹ mua được xe ô tô nhập khẩu từ Mỹ về Việt Nam
nên ông P đã đặt vấn đề nhờ ông I mua hộ.
Ngày 24/8/2016, ông Vũ Đình P và ông Trầ n Xuân I đã ký văn bản thỏa thuâ ̣n
đă ̣t co ̣c tiề n mua xe ô tô với nô ̣i dung: Số tiề n đă ̣t co ̣c là 450.000.000 đồ ng để cam
kế t mua xe do ông Trầ n Xuân I bán, cu ̣ thể là xe ô tô Hyundai 07 chỗ ngồ i nguyên
chiế c, máy dầ u 2.2L – CRDI 4DW màu đồ ng cát sản xuấ t năm 2016, đươ ̣c nhâ ̣p
khẩ u từ My,̃ các thông số kỹ thuâ ̣t đảm bảo vâ ̣n hành an toàn theo tiêu chuẩ n hañ g
sản xuấ t xe Hyundai từ nước nhâ ̣p khẩ u, thỏa thuâ ̣n quy đinh ̣ rõ thời gian giao xe là
trước tế t dương lich ̣ 2017 (không có giá xe).
161
Sau đó ông I không giao đươ ̣c xe đúng ha ̣n theo hợp đồng đặt cọc đã thỏa thuận
trên. Đế n tháng 11/2017, ông P và ông I tiếp tục ký biên bản cam kết, gia hạn thời
hạn bàn giao xe, sẽ làm thủ tu ̣c mua bán và bàn giao xe vào ngày 08/01/2018. Nhưng
ông I đã không thực hiện được, nên trả la ̣i ông P số tiề n đă ̣t co ̣c là 450.000.000 đồ ng.
Sau đó ông P làm đơn khởi kiêṇ yêu cầ u Tòa án giải quyết buộc ông Ích phải trả số
tiề n pha ̣t co ̣c là 450.000.000 đồ ng.
Bi ̣ đơn ông Trầ n Xuân I có lời khai thể hiê ̣n:
Ông và ông Vũ Đin ̀ h P là ba ̣n, chơi với nhau từ năm 2008 nên ông P biế t ông I
có người quen bên My,̃ có thể nhờ mua xe ô tô hô ̣ nên đă ̣t vấ n đề nhờ ông I mua hô ̣
xe ô tô Hyundai Santafe 07 chỗ. Ông bảo ông P là xe khoảng 800 triêụ đồ ng, ông cứ
đưa bao nhiêu thì đưa. Cuố i năm 2016, ông P đưa trực tiế p cho ông I là 450.000.000
đồng, do tin tưởng nên không lâ ̣p giấ y tờ giao nhâ ̣n tiền, sau đó ông I nhờ người thân
là em gái định cư ở Mỹ để mua xe ô tô nhưng do chiń h sách pháp luâ ̣t thay đổ i nên
ông không thể nhâ ̣p khẩu xe ô tô từ Mỹ về Việt Nam giúp ông P đươ ̣c. Tháng
11/2017, ông P đưa cho ông I ký mô ̣t số giấ y tờ nói là thủ tu ̣c, do tin tưởng bạn bè
nên không đọc nội dung, sau khi ký các giấy tờ trên được 03 ngày thì ông I trả la ̣i
ông P 450.000.000 đồ ng tiền đặt cọc, ông P đã nhận lại số tiền này. Nhưng sau đó
ông P lại khởi kiện đòi số tiề n 450.000.000đ đồng tiền pha ̣t co ̣c. Quan điểm ông I
không đồ ng ý, vì ông và ông P không có thỏa thuâ ̣n từ năm 2016, mà các giấ y tờ là
do ông P đưa cho ông ký từ cuố i năm 2017.
Đa ̣i diê ̣n bi ̣ đơn có lời khai, năm 2010 ông I có nhờ người thân bên Mỹ mua
đươ ̣c xe giá rẻ hơn ở Viê ̣t Nam và đã mua đươ ̣c 01 xe ô tô để đi, ông P biế t là Công
ty ông I không kinh doanh xe ô tô nhâ ̣p khẩ u nên ông P chỉ nhờ mua hô ̣ xe ô tô cũ
chạy bằng dầu, sản xuất năm 2016.
Ông T và ông P là anh em đồ ng hao, vơ ̣ ông T và vơ ̣ ông I là đồ ng nghiêp.
̣ Ông
không đươ ̣c chứng kiế n sự viê ̣c giao dich
̣ mua bán gì giữa ông P và ông I. Ông chỉ
nghe ông P nói la ̣i là ông I đang cố gắ ng để mua xe nế u không mua đươ ̣c sẽ thanh
toán la ̣i, do trước đó ông T có cho ông P vay 450.000.000 đồ ng, để mua ô tô nhưng
162
đế n lúc cầ n tiề n mua đấ t cho con nên ông T mới bảo ông P trả tiề n cho ông. Đầ u
năm 2018, ông T và ông P đế n nhà ông I nói chuyê ̣n để lấ y tiề n về , sau đó 03 ngày
thì vơ ̣ chồ ng ông I trả tiề n la ̣i cho ông P và ông P đã trả la ̣i tiề n cho ông T.
Với nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày
28/12/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long đã quyết định tuyên bố không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Đình P về việc yêu cầu ông Trần Xuân I phải trả
số tiền phạt cọc là 450.000.000 đồng (Bốn trăm năm mươi triệu đồng). Ngoài ra, bản
án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 07/01/2019, nguyên đơn ông Vũ Đình P kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án trên theo quy định của pháp
luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ
nguyên nội dung kháng cáo. Người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn và Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Đồng thời khẳng định thỏa thuận đặt cọc tiền
mua xe ô tô ngày 24/08/2016 giữa nguyên đơn ông Vũ Đình P và bị đơn ông Trần
Xuân I là hợp pháp và bị đơn là người có lỗi trong việc không thực hiện được thỏa
thuận giao xe cho nguyên đơn như đã cam kết. Do đó, căn cứ Điều 328 BLDS năm
2015, bị đơn phải trả tiền phạt cọc như nguyên đơn đã yêu cầu là đúng quy định của
pháp luật. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng, do trở ngại khách quan
nên bị đơn không mua được xe cho nguyên đơn cho dù rất mong muốn và giấy thỏa
thuận đặt cọc thực chất được ký vào tháng 11/2017, nên bị đơn không chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh có quan điểm về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự chấp hành đúng
pháp luật.
163
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng, bị đơn không có chức năng kinh
doanh nhập khẩu xe ô tô, nên giao dịch giữa nguyên đơn ông Vũ Đình P và bị đơn
ông Trần Xuân I là vô hiệu theo quy định tại Điều 122, 123 BLDS 2015, cả hai bên
đều có lỗi nên bị đơn không phải chịu tiền phạt cọc. Vì vậy, không có căn cứ để chấp
đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Vũ Đình P; Đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa phúc thẩm, Người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn đề
nghị hoãn phiên tòa, với lý do chưa nhận được Quyết định thay đổi Thẩm phán là
thành viên Hội đồng xét xử, nhưng không đưa ra căn cứ để đề nghị thay đổi Thẩm
phán; Đồng thời, trong quá trình hỏi tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị
tạm ngừng phiên tòa, để làm rõ việc Bị đơn đã chuyển tiền đặt cọc để nhờ mua ô tô
chưa; Làm rõ nội dung các cuộc điện thoại giữa Nguyên đơn và Bị đơn, đã được
Nguyên đơn ghi âm xuất trình tại phiên tòa phúc thẩm để xác định Bị đơn đã chuyển
ô tô về Hải Phòng chưa; Bị đơn có bán đất để trả tiền cho Nguyên đơn hay không.
Tại phiên tòa, đại diện Bị đơn khai đã đưa tiền trực tiếp cho Bố cầm sang Mỹ để nhờ
mua xe hộ Nguyên đơn; Nội dung các cuộc điện thoại giữa Nguyên đơn và Bị đơn,
đã được Nguyên đơn ghi âm xuất trình tại phiên chưa đủ cơ sở khẳng định đó là cuộc
hội thoại giữa Nguyên đơn và Bị đơn; chưa đủ cơ sở khẳng định Bị đơn đã nhập xe
ô tô về cảng Hải Phòng, nhưng lại mang bán cho người khác và việc Bị đơn có bán
đất để lấy tiền trả cho Nguyên đơn, hay dùng khoản tiền nào khác để trả, không có
ý nghĩa xác định lỗi của Bị đơn; Hội đồng xét xử thấy rằng, đề nghị tạm ngừng phiên
tòa của đại diện Viện kiểm sát là không thực sự cần thiết, không có căn cứ để tạm
ngừng phiên tòa, nên vẫn tiến hành xét xử theo luật định.
- Về pháp luật áp dụng: Qui định về “Đặt cọc” và “Giao dịch dân sự vô hiệu”
tại BLDS 2005 có nội dung và hình thức phù hợp với BLDS 2015, nên căn cứ điểm
b khoản 1 điều 688 – BLDS 2015, áp dụng BLDS 2015 để giải quyết.
164
[2.1] Về tố tụng:
Người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn và Người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng như:
- Quyết định đưa vụ án ra xét xử ban hành ngày 08/11/1018, ghi kiểm sát viên
Vũ Ngọc Quyên tham gia phiên tòa, nhưng ngày 15/11/2018 thì VKSND thành phố
Hạ Long mới có Quyết định phân công kiểm sát viên Vũ Ngọc Quyên tham gia phiên
tòa; Quyết định hoãn phiên tòa số 123/2018/QĐST-DS ngày 29/11/2018, của Tòa
án nhân dân thành phố Hạ Long ghi tên kiểm sát viên là Vũ Thị Cẩm Vân, mà không
có tên kiểm sát viên Vũ Ngọc Quyên – là thiếu sót và có sự nhầm lẫn; Nhưng tại
Biên bản phiên tòa ngày 29/11/2018, thể hiện kiểm sát viên là Vũ Ngọc Quyên như
Quyết định đưa vụ án ra xét xử và thực tế tại phiên tòa sơ thẩm ngày 28/12/2018 do
kiểm sát viên Vũ Ngọc Quyên tham gia, nên không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều 236 BLTTDS năm 2015, quy định kiểm sát
viên có quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi sửa đổi, bổ sung vào biên bản
phiên tòa và ký xác nhận; Nhưng kiểm sát viên không có yêu cầu, bổ sung, sửa đổi
nào nên không ký là phù hợp, không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- Việc áp dụng một số Thông tư được Tòa án cấp sơ thẩm viện dẫn như: Khoản
1 Điề u 1 Thông tư số 20/2011/TT-BCT ngày 12/5/2011; Điề u 1 Thông tư số
04/2017/TT-BCT ngày 09/3/2017; Khoản 2 Điề u 6 Thông tư số 28/2017/TT-BCT,
ngày 08/12/2017 là không phù hợp, nên Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét sửa đổi.
[2.2] Về nội dung: Ngày 26/8/2016, ông Vũ Đình P và ông Trần Xuân I thống
nhất thỏa thuận ký hợp đồng đặt cọc, với nội dung: Ông P đặt cọc trước cho ông I
450.000.000 đồng để mua và ông I đồng ý bán loại xe ô tô Hyundai Santafe 07 chỗ
nhập khẩu từ Mỹ, sản xuất năm 2016 và thời gian giao xe trước Tết Dương lịch năm
2017, nhưng không ghi giá xe.
Xét thỏa thuận hợp đồng đặt cọc giữa ông Vũ Đình P và ông Trần Xuân I, Hội
đồng xét xử thấy: Do có mối quan hệ làm ăn quen biết từ năm 2008, ông P biết ông
I có người thân định cư ở Mỹ có thể mua được xe ô tô sản xuất tại Mỹ nhập khẩu về
165
Việt Nam, nên ông P đã nhờ ông Ích mua hộ, ông I đồng ý và nói giá xe khoảng hơn
800.000.000 đồng.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật việc kinh doanh mua bán xe ô tô nhập
khẩu là loại hàng hóa kinh doanh có điều kiện, Thương nhân phải đăng ký và được
cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh (Qui định tại điểm a,b khoản 1
điều 9, Nghị định số 187/2013/NĐ – CP, ngày 20/11/2013; Điểm 4,5 điều 6, Thông
tư số 04/2014/ TT – BCT, ngày 27/01/2014; Điều 3,4 Thông tư số 143/2015/ TT –
BTC, ngày 11/9/2015; Điề u 14, 15, 16 Nghị định 116/2017/CP ngày 17/10/2017 qui
định về điều kiện, thủ tục cấp phép nhập khẩu ô tô). Ông P và ông I ký hợp đồng đặt
cọc với tư cách là cá nhân với nhau, bản thân ông I không được cơ quan có thẩm
quyền cấp giấy phép kinh doanh nhập khẩu xe ô tô và ngay cả doanh nghiệp do ông
I làm chủ là Công ty Cổ phần P L cũng không đăng ký kinh doanh nhập khẩu xe ôtô.
Việc ký hợp đồng đặt cọc giữa ông P và ông I đã vi phạm các quy định của pháp luật
về mua bán nhập khẩu xe ô tô, vi phạm Điều 117, Điều 122, Điều 123 Bộ luật Dân
sự năm 2015, nên hợp đồng này vô hiệu và không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên.
Xác định lỗi của các bên: Cả ông P và ông I khi ký hợp đồng đặt cọc đã không
xem xét các quy định của pháp luật về điều kiện mua bán xe ôtô nhập khẩu, nên cả
hai bên đều có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu, nên thiệt hại các bên phải tự chịu và
yêu cầu phạt đặt cọc của ông P không có căn cứ.
Căn cứ theo quy định tại điểm a, d khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 01/2003/NQ-
HĐTP, ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao:
“1. Tranh chấp hợp đồng dân sự có đặt cọc:
………………
Trong trường hợp có tranh chấp về đặt cọc mà các bên không có thoả thuận
khác về việc xử lý đặt cọc, thì việc xử lý được thực hiện như sau:
a. Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng hoặc
chỉ để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết
hợp đồng vừa để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng thì bên nào có lỗi làm cho
166
hợp đồng không được giao kết hoặc không được thực hiện hoặc bị vô hiệu, thì phải
chịu phạt cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 363 BLDS.
…………….
d. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và c mục 1 này, nếu
cả hai bên cùng có lỗi hoặc trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở
ngại khách quan thì không phạt cọc”.
Mặt khác, thực tế ông I cũng đã từng nhờ em gái mua được ô tô nhập khẩu từ
Mỹ về Việt Nam để sử dụng (có thể dưới dạng quà tặng, quà biếu), nên ông mới
đồng ý mua hộ ông P; nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách quản lý của Nhà
nước ở từng thời điểm và hoàn toàn phụ thuộc vào người thân bên Mỹ và Đại lý
nhập khẩu; Vì ông I không có xe ô tô để bán và cũng không có đủ điều kiện nhập
khẩu xe để bán cho ông P; ông P biết rõ điều này và không có tài liệu, chứng cứ gì
chứng minh rằng ông I có khả năng bán xe ô tô cho ông P, nhưng cố tình từ chối
thực hiện. Do đó, việc ông I không thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách
quan.
Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số
269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao:
“Trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố khách
quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc”.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xuất
trình file ghi âm các cuộc điện thoại giữa ông P và ông I, thấy rằng không có đủ căn
cứ xác minh được các file ghi âm có đúng là cuộc hội thoại giữa ông P và ông I hay
không, và cũng không chứng minh được việc ông I đã mua được xe đưa về Hải
Phòng nhưng không bán cho ông P, nên điều này không làm thay đổi bản chất vụ
án.
Như vậy, cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án cũng như các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan,
167
toàn diện. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Vũ
Đình P.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông P phải nộp án phí dân sự phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Vũ Đình P, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
Căn cứ Điề u 688, các Điều 117, 122, 123, 328, 407 - Bộ luật dân sự năm 2015;
Điểm a,b khoản 1 điều 9, Nghị định số 187/2013/NĐ – CP, ngày 20/11/2013; Điểm
4,5 điều 6, Thông tư số 04/2014/ TT – BCT, ngày 27/01/2014; Điều 3,4 Thông tư số
143/2015/ TT – BTC, ngày 11/9/2015; Điề u 14, 15, 16 Nghị định 116/2017/CP ngày
17/10/2017 qui định về điều kiện, thủ tục cấp phép nhập khẩu ô tô; Điể m a, d Điề u
̣
1 Nghi quyế t 01/2003/HĐTP, ngày 16/4/2003 của Hô ̣i đồ ng thẩ m phán Tòa án nhân
dân Tố i cao; Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua ngày 17/10/2018; Nghi ̣ quyế t 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vu ̣ quố c hô ̣i.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Đình P, về việc yêu cầu ông
Trần Xuân I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ (bốn trăm năm mươi triệu
đồng).
Về án phí:
Buô ̣c ông Vũ Đình P phải chịu 22.000.000 đồ ng án phí dân sự sơ thẩm, ông P
đã nộp 11.000.000 đồ ng theo biên lai tạm ứng án phí số 0002972 ngày 22/05/2018
của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hạ Long; Ông Vũ Đình P còn phải nô ̣p
11.000.000 đồ ng.
168
Buộc ông Vũ Đình P phải chịu 300.000 đồ ng án phí dân sự phúc thẩm; ông P
đã nộp 300.000 đồ ng theo biên lai tạm ứng án phí số 0000668 ngày 25/01/2019 của
Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, ông Phong đã thi hành xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
(đã ký)
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
Buổi thảo luận thứ năm
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 133/2021/DS-PT
Ngày 08 -7- 2021
V/v “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hiền
Các Thẩm phán: Ông Dương Hùng Quang
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Ông Bùi Thanh Khuyên là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thuý Hồng - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 95/2021/TLPT-DS ngày 06 tháng 5
năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2021/DS-ST ngày 24/3/2021 của Tòa án
nhân dân thành phố C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 100/2021/QĐXX-PT
ngày 14 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Phan Văn T, sinh năm 1978 và chị Nguyễn Hồng N, sinh
năm 1983; Địa chỉ: Số 25, đường N, khóm 3, phường 9, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp của chị Nguyễn Hồng N: Anh Phan Văn T, sinh năm
1978; Địa chỉ: Số 25, đường N, khóm 3, phường 9, thành phố C, tỉnh Cà Mau (có
mặt).
- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu Tưư và Phát triển Thanh M; Địa
chỉ: Số 1B, đường Q, khóm 5, phường 5, thành phố C, tỉnh Cà Mau. Địa chỉ trụ sở
mới trước khi giải thể: Số 39, đường B, khóm 8, phường 5, thành phố C, tỉnh Cà
Mau.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Chị Trần Thị Thúy A, sinh năm 1981 –
Chức danh: Giám đốc; Địa chỉ: Số 19B, đường Q, khóm 5, phường 5, thành phố C,
tỉnh Cà Mau là người đại diện theo theo pháp luật của Công ty cũng là bị đơn trong
vụ án, do Công ty đã giải thể.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị Thúy A: Chị Nguyễn Thị Anh
T, sinh năm 1982; Địa chỉ: Khóm 2B, phường 6C, thành phố C, tỉnh Cà Mau (có
mặt).
194
- Người kháng cáo: Anh Phan Văn T và chị Nguyễn Hồng N, là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án được bổ
sung tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:
Ngày 01/8/2018, anh Phan Văn T cùng vợ là chị Nguyễn Hồng N ký hợp
đồng cho Công ty TNHH Đầu Tư và phát triển Thanh M (gọi tắt là Công ty) do chị
Trần Thị Thúy A là Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của Công ty thuê căn
nhà tọa lạc tại số Số 25, đường N, khóm 3, phường 9, thành phố C, tỉnh Cà Mau để
làm Trung tâm giảng dạy tiếng anh và toán tính nhanh, còn trụ sở giao dịch và triển
khai các hoạt động kinh doanh của Công ty đặt tại số Số 19B, đường Q, khóm 5,
phường 5, thành phố C, tỉnh Cà Mau, thời hạn thuê là 03 năm từ ngày 01/10/2018
đến 30/9/2021, giá thuê nhà năm thứ nhất 15.000.000đ/tháng, năm thứ hai
18.000.000đ/tháng, năm thứ ba 19.800.000đ/tháng. Việc ký kết hợp đồng được lập
thành văn bản, có công chứng chứng thực. Sau khi ký hợp đồng, Công ty đã đặt
cọc số tiền là 45.000.000đ. Đồng thời, hai bên thỏa thuận khi nào chấm dứt hợp
đồng vợ chồng anh T sẽ hoàn lại tiền cọc cho Công ty, nếu Công ty vi phạm thì
mất tiền cọc.
Ngày 26/9/2018, giao nhận nhà, tiền thuê tính từ ngày 01/10/2018. Đến
tháng 02/2020, do dịch bệnh Covid nên chị Acó gửi cho vợ chồng anh T thông báo
sự kiện bất khả kháng và phía vợ chồng anh T không lấy tiền thuê nhà 03 tháng
(tháng 02, 03 và tháng 04/2020).
Tiếp tục đến ngày 26/02/2020, chị A lại thông báo về việc chấm dứt hợp
đồng thuê nhà với lý do công ty không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh, vợ chồng
anh T nhận được thông báo này vào ngày 28/02/2020.
Ngày 05/3/2020, nguyên đơn có ý kiến phản hồi về tình hình dịch Covid-19,
nhưng vào ngày 26/02/2020, bị đơn đã gửi thông báo chấm dứt với lý do bất khả
kháng nên nguyên đơn không đồng ý. Sau đó, nguyên đơn có gửi yêu cầu bị đơn
chứng minh sự kiện bất khả kháng nhưng chị Akhông chứng minh được.
Khoảng tháng 5/2020, Công ty chuyển trụ sở đến tại địa chỉ số 39, B, khóm
8, phường 5, thành phố C, tỉnh Cà Mau và tiếp tục kinh doanh. Theo nội dung thỏa
thuận tại hợp đồng, trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày thông báo chấm dứt hợp
đồng thì bên yêu cầu chấm dứt hợp đồng phải có mặt bàn giao nhà nhưng ngày
28/5/2020, chị Akhông có mặt để bàn giao nhà theo đúng thỏa thuận.
Ngày 10/6/2020, chị Atiếp tục thông báo bàn giao nhà (trể hạn so với hợp
đồng), do vợ chồng anh T bận công việc không có mặt. Sau đó, vợ chồng anh T có
liên lạc với chị Abàn giao nhà vào ngày 11/6/2020, nhưng không thực hiện được.
Ngày 12/6/2020, nguyên đơn có chụp lại hiện trạng nhà được trả lại không
đúng như hiện trạng cam kết trong hợp đồng cụ thể: Không sơn sửa lại Tờng nhà,
không quét dọn vệ sinh nền nhà và trần nhà, Tờng nhà có nhiều ốc vít, biển hiệu
chưa được tháo gỡ...Phía vợ chồng anh T có yêu cầu chị Akhắc phục thì chị Acó
thực hiện việc sơn sửa nhà, quét dọn vệ sinh, Tờng đục đã trám lại, nhưng chị
Akhông khắc phục những vấn đề còn lại như kiểm đếm bóng đèn, đường điện,
2
195
đường nước. Ngoài ra, không còn vi phạm khác.
Ngày 26/6/2020, chị Agửi thông báo về việc đơn phương chấm dứt hợp
đồng thuê nhà. Tuy nhiên, phía chị A khóa cửa cuốn, vợ chồng anh T không nhận
được chìa khóa nhà nên không thể tiến hành kiểm tra hiện trạng nhà. Phía vợ
chồng anh T có gửi đề nghị phía chị Abàn giao chìa khóa nhà để kiểm tra nhà, cho
người khác thuê nhà (thông báo vào các ngày 05, 23 tháng 10 và ngày 06 tháng 11
năm 2020). Việc Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn
là vi phạm Điều khoản 7.1, Điều khoản 9.5, Điều khoản 9.6 của hợp đồng ngày
01/8/2018, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng anh T nên
vợ chồng anh T yêu cầu hủy hợp đồng thuê nhà ký ngày 01/8/2018, buộc Công ty
giao trả lại toàn bộ chìa khóa nhà cùng remote cửa cuốn của cửa chính. Đồng thời,
yêu cầu Công ty bồi Tờng số tiền Tơng ứng với 01 năm tiền thuê nhà (tính theo giá
năm thứ hai) là 18.000.000đ x 12 tháng = 216.000.000đ do vi phạm hợp đồng; yêu
cầu trả tiền thuê nhà từ tháng 01/2020 đến tháng 11/2020 (trừ tháng 02, 03, 04,
05/2020) là 07 tháng x 18.000.000đ = 126.000.000đ. Tổng số tiền, vợ chồng anh T
yêu cầu là 342.000.000đ (ba trăm bốn mươi hai triệu đồng). Đối với số tiền đặt
cọc, vợ chồng anh T không đồng ý hoàn lại do Công ty vi phạm hợp đồng.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê nhà, bị đơn trả lại
toàn bộ chìa khóa nhà cùng remote cửa cuốn của cửa chính, trả tiền thuê nhà
126.000.000đ và bồi Tờng 01 năm tiền nhà 216.000.000đ. Tại phiên tòa sơ thẩm,
nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu (đối với chìa khóa nhà cùng remote cửa cuốn của
cửa chính bị đơn đã giao trả ngày 13/01/2021 nên không yêu cầu).
Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án được bổ sung tại phiên tòa,
người đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị Thúy A trình bày:
Người đại diện theo ủy quyền của chị A thừa nhận việc ký kết hợp đồng
thuê nhà với thời gian, thời hạn thuê, giá cho thuê, thời điểm bàn giao nhà cho
thuê, địa điểm và số tiền đặt cọc mà nguyên đơn trình bày là đúng. Do tình hình
dịch bệnh covid ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty – đây là trường hợp bất khả
kháng nên ngày 07/02/2020, Công ty có gửi cho nguyên đơn thông báo về sự kiện
bất khả kháng nêu trên. Đến ngày 26/02/2020, Công ty thông báo về việc chấm dứt
hợp đồng thuê nhà với lý do Công ty không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh và
ngày 10/3/2020, phía nguyên đơn nhận được thông báo trên.
Ngày 05/3/2020, nguyên đơn gửi thông báo cho Công ty yêu cầu rút lại
thông báo về sự kiện bất khả kháng ngày 07/02/2020; Ngày 07/3/2020, Công ty
tiếp tục gửi thông báo cho nguyên đơn khẳng định sự kiện bất khả kháng; Ngày
21/5/2020, nguyên đơn gửi văn bản yêu cầu Công ty chứng minh sự kiện bất khả
kháng; Ngày 22/5/2020, Công ty có văn bản phúc đáp lại yêu cầu của nguyên đơn
và vẫn khẳng định là sự kiện bất khả kháng; Ngày 27/5/2020, nguyên đơn yêu cầu
cung cấp loại hình kinh doanh; Ngày 30/5/2020, nguyên đơn có thông báo cho
rằng Công ty vi phạm và tháng 5/2020, Công ty vẫn thanh toán tiền thuê nhà cho
nguyên đơn vì hợp đồng vẫn chưa chấm dứt.
Ngày 10/6/2020, đến thời hạn bàn giao nhà nhưng nguyên đơn không đến;
Ngày 11/6/2020, Công ty có thông báo yêu cầu nguyên đơn nhận bàn giao nhà;
3
196
Ngày 12/6/2020, nguyên đơn yêu cầu Công ty sửa nhà và đổi hợp đồng điện, nước;
Ngày 15/6/2020, Công ty đã thực hiện đầy đủ việc sửa nhà, đổi hợp đồng điện,
nước theo yêu cầu của nguyên đơn; Ngày 16/6/2020, Công ty thông báo mời
nguyên đơn nhận nhà; Ngày 18/6/2020, Công ty đến để giao nhà nhưng nguyên
đơn không đồng ý nhận và tiếp tục yêu cầu sửa nhà nên chưa giao chìa khóa nhà
cho nguyên đơn. Ngày 21/6/2020, phía nguyên đơn có thông báo không thể nhận
nhà và yêu cầu trả tiền phạt do chậm trả tiền nhà; Ngày 26/6/2020, Công ty gửi
thông báo đơn phương bàn giao nhà cho phía nguyên đơn.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của chị
Axác định Công ty đã chấm dứt hoạt động từ ngày 07/02/2020, hiện Công ty đã bị
giải thể nhưng loại hình hoạt động của doanh Nệp là Công ty TNHH một thành
viên do cá nhân chị A là Giám đốc cũng là chủ sở hữu Công ty, nên chị Alà người
chịu trách nhiệm trong các giao dịch dân sự mà Công ty đã giao kết với đối tác.
Nay người đại diện theo ủy quyền của chị Akhông đồng ý toàn bộ yêu cầu của
nguyên đơn vì lý do Công ty TNHH Đầu Tư và phát triển Thanh M đã thực hiện
đầy đủ thủ tục chấm dứt hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng theo quy định
tại Điều 8 của hợp đồng, việc chậm trể bàn giao nhà không phải lỗi của nguyên
đơn. Tuy nhiên, người đại diện theo ủy quyền của chị Akhông yêu cầu nhận lại số
tiền 45.000.000đ đã đặt cọc. Đối với chìa khóa nhà cùng remote cửa cuốn của cửa
chính, chị Ađã giao trả vào ngày 13/01/2021 (ngày Tòa án tiến hành xem xét thẩm
định tại chổ), còn căn nhà thì phía chị Akhông còn quản lý kể từ ngày 26/6/2020
cho đến nay. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, thì người đại
diện theo ủy quyền của chị A xác định chị A là người có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ cho nguyên đơn. Bên cạnh đó, người đại diện theo ủy quyền của chị A
cho rằng khi đăng ký doanh Nệp có trụ sở tại số 19B, đường Q, khóm 5, phường 5,
thành phố C, tỉnh Cà Mau nhưng sau đó, chị A dời về số 39, đường B, khóm 8,
phường 5, thành phố C nên có sự thay đổi địa chỉ trụ sở Công ty. Vì vậy, cơ quan
đăng ký mới thông báo việc giải thể Công ty tại trụ sở mới.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2021/DS-ST ngày 24/3/2021 của Tòa án
nhân dân thành phố C đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 117, 118, 121 Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 73 Luật
Doanh Nệp năm 2014; các Điều 93, 94, 156, 351, 428 và 472 Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc Hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận yêu cầu của anh Phan Văn T, chị Nguyễn Hồng N về
việc hủy bỏ hợp đồng thuê nhà ngày 01/8/2018 (hợp đồng này đã chấm dứt từ ngày
26/6/2020) và buộc chị Trần Thị Thúy A là chủ sở hữu Công ty TNHH Đầu Tư và
Phát triển Thanh M (do Công ty đã giải thể) trả tiền thuê nhà, bồi Tờng các khoản
với số tiền là 342.000.000đ (ba trăm bốn mươi hai triệu đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền
kháng cáo của các đương sự theo luật định.
4
197
Ngày 02/4/2021, bị đơn anh Phan Văn T và chị Nguyễn Hồng N có đơn
kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, cụ thể là buộc chị Trần Thị Thuý An bồi Tờng 01 năm tiền thuê
nhà tính theo giá năm thứ hai là 18.0000.000đ x 12 tháng = 216.000.000đ. Buộc
chị Trần Thị Thuý An trả 07 tháng tiền thuê nhà chưa thanh toán (tháng 1 và từ
tháng 6 – tháng 11), cụ thể là 18.000.000đ x 07 tháng = 126.000.000đ.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn trình bày: giữ nguyên nội dung kháng cáo. Căn cứ kháng cáo: bị
đơn vi phạm hợp đồng thuê nhà; tuy có dịch bệnh xảy ra nhưng bị đơn chưa áp
dụng mọi biện pháp cần thiết để khắc phục, được thể hiện: bị đơn chấm dứt thuê
nhà nhưng dời qua địa điểm mới vẫn tiếp tục kinh doanh được chứng minh tại giấy
đăng ký chứng nhận kinh doanh, giấy nộp thuế, phiếu thu tiền học sinh được
nguyên đơn bổ sung tại cấp phúc thẩm.
Đại diện bị đơn trình bày: không đồng ý với kháng cáo của nguyên đơn; bị
đơn vẫn thực hiện đúng theo thỏa thuận của hợp đồng về việc chấm dứt thuê nhà;
dịch bệnh là sự kiện bất khả kháng, bị đơn không kinh doanh được nên mới chấm
dứt hợp đồng thuê nhà. Trường hợp nguyên đơn chứng minh được bị đơn kinh
doanh ở địa điểm mới thì bị đơn sẽ chịu trách nhiệm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy
định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và
nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định.
Về nội dung: Áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không
chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
5
198
Quá trình thực hiện hợp đồng, thì vào ngày 07/02/2020 bị đơn gửi văn bản
cho nguyên đơn thông báo tình hình dịch bệnh Covid-19; ngày 26/02/2020 bị đơn
gửi thông báo chấm dứt hợp đồng thuê nhà, nguyên đơn không đồng ý và yêu cầu
bị đơn phải chứng minh sự kiện bất khả kháng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự: “Sự kiện bất khả kháng là
sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc
phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Đối
chiếu quy định này, thì dịch covid-19 là sự kiện xảy ra một cách khách quan mà
các bên đương sự không thể lường trước. Nhưng xem xét cụ thể đối với tranh chấp
này, nguyên đơn khởi kiện với hai nội dung: yêu cầu bị đơn thanh toán tiền thuê
nhà và yêu cầu bồi Tờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng thuê nhà.
Xét yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà: Nguyên đơn đưa ra những chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu của mình, đó là:
Thứ nhất, ngày 0702/2020, bị đơn gửi cho nguyên đơn thông báo về tình hình
dịch bệnh, tiếp theo đó bị đơn tiếp tục gửi thông báo chấm dứt hợp đồng thuê nhà;
ngày 21/5/2020 nguyên đơn có văn bản yêu cầu bị đơn chứng minh sự kiện bất khả
kháng và bị đơn phúc đáp về sự kiện bất khả kháng không được nguyên đơn chấp
nhận, bởi vì theo nguyên đơn có dịch Covid -19 nhưng không làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của bị đơn vì nguyên đơn tự nguyện không nhận tiền nhà 03 tháng (từ
tháng 02 đến tháng 4/2020) và Công ty của bị đơn vẫn hoạt động bình Tờng được
thể hiện là bị đơn chấm dứt thuê nhà nhưng cũng trong tháng 02/2020 bị đơn thành
lập Công ty ở địa điểm mới tại số 39, B, khóm 8, P9, TP C vẫn do Trần Thị Thúy
A là chủ công ty, bà A vẫn đóng thuế Quý 2/2020, giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh thể hiện đăng ký lần hai và lớp học vẫn hoạt động (có hóa đơn thu tiền và
hình ảnh giáo viên đón học sinh).
Thứ hai, theo như hợp đồng thuê nhà thì khi trả nhà phải trả đúng như hiện
trạng ban đầu. Theo như nguyên đơn thì bị đơn không thực hiện sơn nhà, đi lại
đường điện, nước, gắn bóng đèn... đúng như thỏa thuận ban đầu nên nguyên đơn
không nhận nhà và bị đơn cũng không giao chìa khóa cho nguyên đơn; nguyên đơn
có gửi văn bản cho bị đơn ba lần về việc không đồng ý nhận nhà với lý do không
đúng hiện trạng ban đầu và việc Công ty không bàn giao chìa khóa (ba văn bản này
gửi vào các ngày ngày 21/6/2020, ngày 23/10/2020 và ngày 06/11/2020) bị đơn
nhận được văn bản nhưng không có phản hồi về ý kiến của nguyên đơn.
Chứng cứ nguyên đơn trình bày trên là sự thật có xảy ra, được thể hiện tại cấp
phúc thẩm nguyên đơn cung cấp chứng cứ có sự việc bà Thúy A đăng ký kinh
doanh lần hai ở địa điểm mới, có đóng thuế, có biên lai thu tiền học sinh...; có sự
việc nguyên đơn gửi văn bản cho bị đơn 03 lần về việc không đồng ý nhận nhà vì
lý do không thực hiện sơn sửa như ban đầu nhưng phía bị đơn không có phản hồi
và thực tế bị đơn cũng không giao trả chìa khóa nhà và đến ngày 13/01/2021 Tòa
án tiến hành thẩm định thì nguyên đơn mới nhận được chìa khóa nhà từ bị đơn.
Với những căn cứ nguyên đơn đưa ra, có nội dung phù hợp với ý kiến của bị
đơn được thể hiện tại Thông báo về việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà ngày
26/02/2020, bà Thúy A nêu: “...Tuy nhiên, vì kết quả kinh doanh không thuận lợi
6
199
Tờng xuyên thua lỗ kéo dài, cộng thêm tình hình dịch bệnh....”. Như vậy, nguyên
nhân để chấm dứt thuê nhà không chỉ vì dịch bệnh. Tại phiên hòa giải cấp sơ thẩm,
bà Thúy A tham dự và đồng ý không nhận lại tiền đặt cọc và trả tiền thuê nhà cho
nguyên đơn 06 tháng.
Với những vi phạm của bị đơn như nêu trên đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của nguyên đơn, thời gian dài nguyên đơn không cho thuê được nhà. Vì vậy,
nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền thuê nhà trong thời gian chưa nhận lại nhà và
chưa giao trả chìa khóa là phù hợp với quy định tại Điều 481, 482 của Bộ luật dân
sự. Nguyên đơn giảm cho bị đơn 03 tháng tiền nhà, chỉ yêu cầu 07 tháng tiền nhà x
18.000.000đ/tháng = 126.000.000 đồng được chấp nhận.
[2.2] Xét kháng cáo yêu cầu bồi thường 01 năm tiền thuê nhà theo giá năm
thứ hai bằng 216.000.000đ (18.000.000 đồng x 12 tháng)
Hợp đồng thuê nhà thể hiện: Thời hạn thuê 03 năm, bắt Đầu Từ ngày
01/10/2018 đến hết ngày 30/9/2021; Giá thuê: từ tháng 13 đến tháng 24 giá
18.000.000đ/tháng; Trong mọi trường hợp bên A hoặc bên B nếu đơn phương
chấm dứt hợp đồng trước thời hạn thì phải bồi Tờng số tiền Tơng ứng với 01 năm
tiền thuê nhà cho bên kia cộng với điều 9.5 (tức là tiền cọc 45.000.000đ) và chịu
trách nhiệm khác (nếu có). Một trong hai bên muốn chấm dứt hợp đồng thì phải
báo trước cho bên kia thời gian tối thiểu 03 tháng.
Căn cứ nội dung hợp đồng, trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng thì
các bên phải đảm bảo điều kiện quy định tại Điều 8 của Hợp đồng về “Trường hợp
bất khả kháng”. Phía nguyên đơn cho rằng có dịch bệnh Covid-19 nhưng bị đơn
chưa tận dụng hết khả năng để khắc phục mà mục đích chuyển đến địa điểm mới
tiếp tục kinh doanh cho nên không xem là bất khả kháng. Theo như bị đơn (bên B),
thì do dịch bệnh nên không có học sinh đi học, Công ty giải thể cho nên ngày
26/02/2020 gửi Thông báo chấm dứt thuê nhà trước 03 tháng, bị đơn xác nhận
mình thực hiện đúng khoản 9.7 Điều 9 Hợp đồng. Tuy nhiên, lý do chấm dứt
nguyên đơn không chấp nhận.
Qua xem xét toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận thấy, dịch Covid-19
xảy ra thì các đương sự không lường trước được, trên thực tế dịch bệnh đã gây ra
hậu quả hết sức nặng nề, làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình Tờng, ảnh hưởng đến
sản xuất kinh doanh từ đó dẫn đến ảnh hưởng đến thu nhập của mọi người là sự
thật xảy ra mà cụ thể trong vụ án này đã ảnh hưởng đến nguyên đơn, bị đơn. Hiện
tại nhà của nguyên đơn vẫn chưa có người thuê mà nguyên đơn còn phải đóng tiền
vay Ngân hàng; về phía bị đơn, sau khi cả nước thực hiện Chỉ thị 16 vào năm 2020
thì số học sinh đến lớp bị hạn chế dẫn đến doanh thu thấp nhưng phải chi trả lương
nhân viên và các chi phí khác...; Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp chứng
cứ bị đơn vẫn tiếp tục kinh doanh sau khi chấm dứt thuê nhà, đó là bị đơn vẫn nộp
thuế hàng tháng, có phiếu thu tiền học phí, tuy vậy hồ sơ không thể hiện thu nhập
của bị đơn từ hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp này, quá trình thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì các bên có thể Tơng lượng với nhau, tại
khoản 2 Điều 420 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi
cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp
7
200
đồng trong một thời gian hợp lý”; phía bị đơn cũng có các văn bản gửi nguyên đơn
về việc xin chấm dứt hợp đồng và trên thực tế về ý thức nguyên đơn cũng có thiện
chí cho bị đơn chấm dứt hợp đồng thuê nhà, bởi vì nếu không đồng ý nhận lại nhà
thì nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải sơn sửa lại nhà đúng như hiện trạng ban
đầu và hẹn ngày giao nhận nhà và tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn trình bày
nếu tại thời điểm tháng 6/2020 bị đơn đáp ứng đúng yêu cầu về sửa nhà như thỏa
thuận của hợp đồng thì nguyên đơn sẽ không yêu cầu bồi thường 01 năm tiền nhà
(vì bên B thuê nhà để dạy học toán tính nhanh và anh văn nên bị đơn có sơn sửa lại
nhà, đi lại đường điện...).
Như vậy, trước khi chấm dứt hợp đồng thuê nhà bị đơn có thực hiện theo điều
khoản của hợp đồng là báo trước 03 tháng và với căn cứ phân tích trên được xem
là lý do chính đáng để bị đơn không thuê nhà tiếp tục. Vì vậy, không buộc bị đơn
phải bồi Tờng 01 năm tiền thuê nhà theo như kháng cáo của nguyên đơn.
[3] Từ nhận định trên, chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn; Sửa
một phần bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2021/DS-ST ngày 24/3/2021 của Tòa án
nhân dân thành phố C.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị giữ nguyên
bản án sơ thẩm; tuy nhiên, Hội đồng xét xử sửa một phần bản án sơ thẩm với
những căn cứ nhận định trên.
[5] Về án phí
Do sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên
đơn, nên án phí dân sự sơ thẩm có thay đổi. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm có giá ngạch 5% đối với yêu cầu không được chấp nhận là 10.800.000 đồng,
được khấu trừ phần đã dự nộp. Bị đơn phải chịu 6.300.000 đồng.
Án phí phúc thẩm nguyên đơn không phải chịu, đã dự nộp được nhận lại toàn
bộ.
[6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; chấp nhận một phần
kháng cáo của nguyên đơn; Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2021/DS-ST ngày
24/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Căn cứ vào các Điều 117, 118, 121 Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 73 Luật
Doanh Nệp năm 2014; các Điều 93, 94, 156, 351, 420, 428 và 472 Bộ luật dân sự;
Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc việc chấm
dứt hợp đồng thuê nhà lập ngày 01/8/2018 giữa anh Phan Văn T, chị Nguyễn Hồng
8
201
N với chị Trần Thị Thúy A là chủ sở hữu Công ty TNHH Đầu Tư và Phát triển
Thanh M (Công ty đã giải thể) và buộc chị Trần Thị Thúy A thanh toán tiền thuê
nhà cho nguyên đơn Phan Văn T, chị Nguyễn Hồng N số tiền 126.000.000 đồng.
2. Bác yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn bồi Thường 01 năm
tiền thuê nhà theo giá năm thứ hai là 216.000.000 đồng.
Trường hợp Trần Thị Thúy A chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì phải
chịu lãi suất theo chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
dân sự.
3. Về án phí
3.1- Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch
Nguyên đơn anh Phan Văn T và chị Nguyễn Hồng N phải chịu số tiền
10.800.000đ. Ngày 11/11/2020, anh T và chị N đã nộp số tiền tạm ứng án phí là
8.550.000đ theo biên lai thu số 0000185 được đối trừ chuyển thu. Anh T và chị N
phải nộp tiếp là 2.250.000 đồng.
Bị đơn chị Trần Thị Thúy A phải chịu 6.300.000 đồng (chưa nộp).
3.2- Án phí phúc thẩm nguyên đơn không phải chịu, Phan Văn T, Nguyễn
Hồng N đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng tại biên lai số 0000518 ngày
06/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C được nhận lại toàn bộ.
4. Các quyết định khác của án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
của Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân thành phố C;
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Chi cục THADS thành phố C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
9
202
Buổi thảo luận thứ sáu
203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
217
218
219
220
221
222
223
224
225
226
227
228
229
230
231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
Buổi thảo luận thứ bảy
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
Bản án số 05/2019/DS-PT ngày 16/1/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn ông Nguyễn Văn A: Tôi là
chủ cơ sở đóng tàu, còn B là người làm công cho tôi, hai bên không có làm hợp đồng
chỉ thỏa thuận bằng lời nói, thời giờ làm việc mỗi ngày là 08 giờ, mỗi ngày tiền công
là 200.000 đồng. Công việc thì tôi giao việc gì thì B làm việc đó. Vào buổi sáng ngày
21/9/2016 khi Nguyễn Văn B và Bùi Xuân C (C cũng là người làm công cho tôi) đến
thì tôi phân công cho B cùng với tôi hàn và lấp đặt bộ phận máy tàu ở phía sau đuôi
tàu (chẹt), còn Bùi Xuân C thì sơn ở hầm tàu. Đến khoảng 10 giờ 30 thì B đi ra nghỉ
giải lao rồi leo lên thân tàu, sau đó B tự ý lấy sắt cắt làm nơi cho chủ tàu để trái cây
cúng (bàn thờ), việc làm này của B không do tôi phân công và tôi cũng không hay
biết. Khi B dùng mỏ hàn cắt sắt làm văng lửa xuống thùng sơn do Bùi Xuân C đang
sơn dưới hầm tàu làm bùng cháy thùng sơn dẫn đến Bùi Xuân C bị bỏng với tỷ lệ
thương tích qua giám định là 51%. Do đó, Nguyễn Văn B bị truy tố về tội vô ý gây
thương tích.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2018/HSST ngày 09/4/2018 của Tòa án nhân
dân huyện Y và Bản án hình sự phúc thẩm số 13/2018/HSPT ngày 13/6/2018 của Tòa
án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã tuyên xử về phần trách nhiệm dân sự thì tôi có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho Bùi Xuân C tổng cộng là 166.6477.678đồng (kể cả số
tiền 10.000.000đồng tôi đã hỗ trợ cho Bùi Xuân C lúc điều trị) và dành quyền khởi
kiện cho tôi đối với Nguyễn Văn B.
Nay tôi khởi kiện yêu cầu buộc Nguyễn Văn B có trách nhiệm thanh toán lại
cho tôi số tiền tổng cộng là 165.647.678đồng (khấu trừ số tiền 1.000.000 đồng mà B
đã nộp trước).
Bị đơn ông Nguyễn Văn B trình bày: Tôi thừa nhận lời trình bày của ông Nguyễn
Văn A như đã nêu trên là đúng, việc tôi hàn bàn thờ trên mũi tàu là tôi tự ý làm, sự
việc xảy ra làm Bùi Xuân C bị thương là do lỗi của tôi, từ khi sự việc xảy ra đến nay
tôi chưa bồi thường hay khắc phục gì cho Bùi Xuân C cũng như cho ông A. Hiện nay
ông A chưa bồi thường cho Bùi Xuân C, nên ông A yêu cầu tôi bồi thường lại cho
ông A là không có căn cứ, còn tôi là người làm công nên không có khả năng bồi
thường.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 43/2018/DS-ST ngày 26-10-2018 của Tòa án nhân
dân huyện X quyết định như sau:
Căn cứ khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố
261
tụng Dân sự, Điều 604,605,606,609 và Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2005; Khoản 2
Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn A.
1. Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn B phải bồi thường thiệt hại tổng cộng là:
165.647.500đồng (một trăm sáu mươi lăm triệu sáu trăm bốn mươi bảy ngàn năm
trăm đồng) cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn A. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành
án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án
cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn B phải nộp là: 8.282.000đồng (tám
triệu hai trăm tám mươi hai ngàn đồng). Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn A
4.141.000 đồng (bốn triệu một trăm bốn mươi mốt ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003314 ngày 10-9-2018 của Chi cục Thi
hành dân sự huyện X, tỉnh Sóc Trăng.
Ngày 31-10-2018 bị đơn ông Nguyễn Văn B làm đơn kháng cáo có nội dung:
ông không đồng ý đối với quyết định của bản án sơ thẩm về việc buộc ông phải trả
cho ông A 165.647.500 đồng (một trăm sáu mươi lăm triệu sáu trăm bốn mươi bảy
ngàn năm trăm đồng) với lý do: tại bản án hình sự số 31/2018/HSPT ngày 13-6-2018
của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng buộc ông A bồi thường thiệt hại cho ông Bùi
Xuân C tổng cộng số tiền 165.647.500 đồng (một trăm sáu mươi lăm triệu sáu trăm
bốn mươi bảy ngàn năm trăm đồng), nhưng hiện nay ông A chưa thực hiện nghĩa vụ
bồi thường cho ông C, nên ông A không được quyền yêu cầu ông bồi thường lại cho
ông A.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện; bị
đơn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng phát biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng ở giai đoạn phúc thẩm, những người tiến hành tố tụng,
những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự và tuân thủ đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
262
- Về nội dung: Sau khi phân tích đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn
B, sau cùng vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều
308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận đơn kháng cáo của ông
Nguyễn Văn B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tung: Bị đơn ông Nguyễn Văn B có đơn kháng cáo trong thời
hạn quy định của pháp luật, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xác định
là kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung:
[2.1] Theo nội dung đơn khởi kiện và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án, có cơ sở xác định ông Nguyễn Văn A là chủ cơ sở đóng tàu, còn Nguyễn Văn B
là người làm công, cùng làm với B là Bùi Xuân C. Vào ngày 21-9-2016 ông B đã tự
ý cắt sắt để hàn bàn để trái cây trên tàu, nhưng việc làm của B không được ông A
phân công, khi B dùng mỏ hàn cắt sắt làm văng lửa xuống thùng sơn do Bùi Xuân C
đang sơn dưới hầm tàu làm bùng cháy thùng sơn dẫn đến Bùi Xuân C bị bỏng với tỷ
lệ thương tích qua giám định là 51%.
Tại Bản án sơ thẩm số 05/2018/HSST ngày 09-4-2018 của Tòa án nhân dân
huyện Y và Bản án hình sự phúc thẩm số 31/2018/HSPT ngày 13-6-2018 của Tòa án
nhân dân Tỉnh Sóc Trăng đã xử phạt Nguyễn Văn B về tội vô ý gây thương tích; về
phần trách nhiệm dân sự, bản án buộc ông Nguyễn Văn A phải bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng cho ông Bùi Xuân C tổng cộng các khoản là 165.647.678 đồng và
dành quyền khởi kiện cho ông Nguyễn Văn A.
[2.2] Ngày 10-8-2018 ông Nguyễn Văn A khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn
B có trách nhiệm hoàn trả cho ông số tiền 165.647.678đồng để ông bồi thường cho
ông Bùi Xuân C.
Xét thấy, yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn A được Tòa án nhân dân
263
huyện X thụ lý giải quyết là đúng quy định tại khoản 6 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân
sự năm 2015.
Theo quy định của pháp luật thì thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.
Do ông Nguyễn Văn A là chủ cơ sở đóng tàu, còn Nguyễn Văn B là người làm công, nên
tại bản án hình sự phúc thẩm nêu trên buộc ông Nguyễn Văn A bồi thường thiệt hại cho
Bùi Xuân C là đúng với quy định tại các Điều 605, 622 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Tại Điều 622 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: cá nhân phải bồi thường thiệt
hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và
có quyền yêu cầu người làm công có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản
tiền theo quy định của pháp luật.
Nhận thấy, Nguyễn Văn B có lỗi hoàn toàn trong việc gây thiệt hại cho Bùi Xuân C
và đã bị xử lý hình sự về tội vô ý gây thương tích, nên bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của ông A, buộc ông B hoàn trả lại cho ông A tổng số tiền 165.647.678
đồng mà ông A phải bồi thường cho ông Bùi Xuân C là có căn cứ và đúng quy định Điều
622 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Mặt khác, nhận thấy việc ông C yêu cầu ông A bồi thường và việc ông A khởi kiện
yêu cầu ông B hoàn trả khoản tiền ông bồi thường cho ông C được Tòa án giải quyết bằng
vụ án riêng biệt, nên ông B kháng cáo cho rằng ông A không được quyền yêu cầu ông bồi
thường lại cho ông A là không có căn cứ.
Như đã phân tích nêu trên, nhận thấy kháng cáo của ông Nguyễn Văn B không có
căn cứ nên không được chấp nhận.
[2.3] Kiểm sát sát viên tham gia phiên tòa đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Văn B, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử
nên chấp nhận.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; căn cứ khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc ông Nguyễn Văn B phải chịu án phí phúc thẩm là
300.000đồng (ba trăm nghìn đồng).
[4] Theo quy định tại khoản 2 Điều 282, 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì các quyết định
khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ nêu trên;
264
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 điều 308; khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp
nhận nội dung đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn B.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 43/2018/DS-ST, ngày 26-10-2018 của Tòa án
nhân dân huyện Thạnh Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, như sau:
Căn cứ các Điều 604,605,606,609 và Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2005; Khoản 1
và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn A.
1. Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn B có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Văn A
tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tổng cộng là: 165.647.500đồng (một trăm sáu
mươi lăm triệu sáu trăm bốn mươi bảy ngàn năm trăm đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo qui định tại khoản
2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn Văn B phải nộp là: 8.282.000đồng (tám triệu
hai trăm tám mươi hai ngàn đồng). Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn A 4.141.000 đồng
(bốn triệu một trăm bốn mươi mốt ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí số 0003314 ngày 10-9-2018 của Chi cục Thi hành dân sự huyện X,
tỉnh Sóc Trăng.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Nguyễn Văn B phải chịu là 300.000đồng (ba trăm
nghìn đồng), được khấu trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003355 ngày
31-10 -2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự
thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành
án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực
pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
265
266
267
268
269
Bài tập tháng thứ nhất
270
271
272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
Bài tập tháng thứ hai
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
298
299
300
301
302
303
304
305
306
Quyết định số 23/2005/GĐT-DS ngày 2-2-2005
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
XÉT THẤY:
Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án thì trước khi xảy ra tai nạn anh Bình điều
khiển xe đạp đi giữa hai làn đường dành cho xe cơ giới, khi nghe tiếng còi xe ôtô phía
sau anh đã tránh sang bên trái. Khi đó ông Dũng điều khiển xe máy do không làm chủ
tốc độ, không đảm bảo khoảng cách an toàn khi tránh vượt và không làm chủ được
tay lái khi tham gia giao thông nên đã để xe máy va quệt với xe đạp và kéo xe đạp của
anh Bình đi được 5-6m mới dừng lại được.
Còn anh Khoa khi điều khiển ôtô đã phát hiện được xe đạp của anh Bình phía
trước, sau đó là xe của ông Dũng, nhưng do không làm chủ tốc độ, tay lái nên đã để
xe ôtô chèn qua xe đạp của anh Bình sau khi xe ông Dũng va quệt với xe anh Bình và
kéo rê đi được gần 20m mới dừng.
Tại cơ quan công an các đương sự đều thừa nhận nội dung trên. Lời thừa nhận
của các đương sự phù hợp với lời khai các nhân chứng, biên bản hiện trường và kết
luận của cơ quan công an.
Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định trong trường hợp này cả anh
Bình, ông Dũng và anh Khoa cùng có lỗi gây ra vụ tai nạn trên và gây thiệt hại cho
anh Bình (trong đó anh Bình có lỗi chính) là có cơ sở đúng pháp luật. Đồng thời cấp
phúc thẩm xác định tổng số thiệt hại của anh Bình là 13.095.418 đồng là có căn cứ.
Nhưng lại buộc ông Dũng và ông Khánh bồi thường toàn bộ, mà không xem xét đến
trách nhiệm của anh Bình là không chính xác.
Mặt khác, như đã phân tích trên trong vụ án này anh Khoa cũng có một phần
lỗi. Tòa án cấp phúc thẩm buộc chủ phương tiện là ông Khánh bồi thường cho anh
Bình là đúng, nhưng lại áp dụng khoản 3, Điều 627 là không chính xác, mà phải áp
dụng khoản 2, Điều 627 Bộ luật Dân sự mới đúng. Đồng thời, Tòa án các cấp không
dành cho ông Khánh quyền khởi kiện yêu cầu anh Khoa bồi thường cho ông Khánh số
tiền mà ông bồi thường cho anh Bình do lỗi của anh Khoa, nếu ông Khánh và ông
Khoa không tự thương lượng giải quyết được là không đảm bảo quyền lợi cho ông
Khánh.
Bởi các lẽ trên và căn cứ khoản 3, Điều 297; Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH
- Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 03 ngày 12-1-2004 của Tòa án nhân dân
thành phố Hải Phòng: giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
----------------------------------
Quyết định số 30/2006/HS-GĐT ngày 26-9-2006
của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao
NHẬN THẤY:
Khoảng 12 giờ ngày 20/03/2005, Trinh nhờ Giang điều khiển xe mô tô biển số
67F8 - 1529 (do ông Mướt đứng tên chủ sở hữu xe) chở bà Phê và bà Huôl về nhà.
Giang lái xe chở bà Phê và bà Huôl đi được khoản 1km thì đâm vào bà Giỏi đang đi
bộ qua đường làm bà Giỏi bị chấn thương sọ não và chết trên đường đi cấp cứu.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 42/2005/HSST ngày 30/09/2005, Tòa án nhân
dân huyện Tân Châu áp dụng khoản 1 Điều 205; điểm h khoản 1 khoản 2 Điều 46,
khoản 1 Điều 42, Điều 60 Bộ luật Hình sự: Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 1995, xử
phạt Trinh 18 tháng tù về tội “giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ” nhưng cho hưởng án treo, buộc Trinh, ông Mướt
307
và Giang (do cha, mẹ là ông Trường và bà Lài đại diện) liên đới bồi thường 7.857.000
đồng cho bà Vồi.
Ngày 01/10/2005, bà Vồi kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo và
tăng tiền bồi thường. Ngày 04/10/2005, ông Trường kháng cáo đề nghị xem xét lại
việc buộc ông liên đới bồi thường.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 98/HSPT ngày 24/11/2005, Tòa án nhân dân
tỉnh An Giang đã giữ nguyên tội danh và hình phạt đối với Trinh, về trách nhiệm dân
sự: áp dụng khoản 1 Điều 42 Bộ luật Hình sự; các Điều 611, 614 và 627 Bộ luật Dân
sự năn 1995, buộc Trinh, ông Mướt và Giang (do cha, mẹ là ông Trường và Lài đại
diện) liên đới bồi thường 25.357.000 đồng cho bà Vồi, buộc ông Trường nộp 50.000
đồng án phí hình sự phúc thẩm.
(…).
XÉT THẤY:
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt Trinh 18 tháng tù về tội
“giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ”,
nhưng cho hưởng án treo và buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Vồi là có căn cứ, đúng pháp luật.
- Về trách nhiệm dân sự của Giang: Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự
năm 2005 (Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 1995) về bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra và hướng dẫn tại điểm b khoản 2 mục III nghị quyết số
03/2006/NQ - HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thì “Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không đúng quy định của pháp luật thì
chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại”. Trinh giao nguồn nguy hiểm cao độ (xe mô tô)
cho Giang sử dụng trái pháp luật, do đó Trinh là người có trách nhiệm bồi thường khi
thiệt hại xảy ra. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Giang (do cha, mẹ
là ông Trường và Lài đại diện) bồi thường thiệt hại là không đúng.
- Về trách nhiệm dân sự của ông Mướt: Chiếc xe mô tô mà Giang sử dụng là
của Trinh và chồng là ông Mướt. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì chưa có
căn cứ kết luận ông Mướt có lỗi trong việc để Giang sử dụng xe trái pháp luật, do đó
buộc ông Mướt liên đới bồi thường thiệt hại là chưa có cơ sở vững chắc.
- Về việc xác định thiệt hại: Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu bồi
thường tiền tổn thất tinh thần là 17.500.000 đồng (tương đương với 50 tháng lương tối
thiểu) theo yêu cầu kháng cáo của bà Vồi là đúng pháp luật. Tuy nhiên, xác định tổng
số tiền chi phí mai táng mà bà Vồi được bồi thường là 7.857.000 đồng (bao gồm cả
tiền xây mộ, chụp ảnh) là không phù hợp với quy định tại Điều 610 Bộ luật Dân sự
năm 2005 và hướng dẫn tại khoản 2.2 mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ - HĐTP nêu
trên vì khoản tiền xây mộ, chụp ảnh không được xác định là chi phí hợp lý cho việc
mai táng.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật Tố tụng hình
sự,
QUYẾT ĐỊNH
1. Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 98/HSPT ngày 24/11/2005 của Tòa án nhân
dân tỉnh An Giang về phần quyết định.
- “Buộc Trinh, Mướt và Giang do cha mẹ là ông Tường, Lài đại diện phải có
trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho nạn nhân do bà Vồi là con ruột nhận số
tiền 25.357.000 đồng”.
- “Ông Trường phải chịu 50.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm…”
308
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang để xét xử phúc thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật.
309
310
311
312
313
314
315
316
317
318
319
320
321
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Số: 418/2017/DS-ST
Ngày: 29-9-2017
V/v Tranh chấp hợp đồng mua bán
căn hộ.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Ngày 29 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 15/2017/TLST-DS
ngày 18 tháng 01 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ”
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 198/2017/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 8
năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa số 153/2017/QĐST- DS ngày 13/9/2017,
giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
- Ông Trương Khắc V (có mặt).
- Bà Nguyễn Thị Thanh T (có mặt).
Thường trú: Thôn M, xã N, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.
Địa chỉ liên hệ: số X đường L, Phường Y, Quận B, Thành phố Hồ Chí
Minh.
322
2
Theo đơn khởi kiện ngày 03/01/2017 của nguyên đơn ông Trương Khắc
V, Bà Nguyễn Thị Thanh T và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện:
Ngày 17/9/2012 nguyên đơn ký kết với Công ty cổ phần đầu tư và phát
triển địa ốc K (sau đây gọi tắt là Công ty K) Hợp đồng mua bán số:
0110/002T02-K1GV/HĐMB. Theo hợp đồng Công ty K bán cho ông V, bà T
căn hộ số 00, tầng 0, khối Z thuộc dự án Cụm Cao ốc K – tại đường Q, Phường
X, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Diện tích căn hộ là 60.4 m2, giá tiền căn hộ
811.365.280 đồng. Thời hạn bàn giao căn hộ dự kiến vào quý IV năm 2013
nhưng không trễ quá 03 tháng. Trường hợp Công ty K chậm bàn giao căn hộ
theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng thì Công ty K phải trả lãi cho ông V,
bà T trên tổng số tiền của các đợt đã thanh toán tính từ ngày trễ hạn. Lãi suất
được áp dụng là lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12 tháng của Ngân hàng
Vietcombank. Tại thời điểm giao kết hợp đồng dự án cụm Cao ốc K đã được
triển khai xong phần móng của tòa nhà.
Thực hiện hợp đồng, ông V, bà T đã thanh toán tiền mua căn hộ cho Công
ty K theo đúng thỏa thuận, tính đến ngày 01/4/2014 ông V, bà T đã thanh toán
cho Công ty K được 477.293.956 đồng. Tuy nhiên, đến ngày 24/12/2015 Công
ty K mới bàn giao căn hộ cho ông V, bà T. Kể từ ngày bàn giao căn hộ cho đến
nay, Công ty K không tiến hành làm các thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho ông V, bà T.
Ngày 28/02/2017 nguyên đơn có bản tự khai rút một phần yêu cầu khởi
kiện về việc yêu cầu Công ty K phải bồi thường chi phí thuê nhà cho nguyên
đơn do Công ty K chậm bàn giao căn hộ với số tiền 160.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, tiến hành thu thập
chứng cứ theo đúng quy của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, còn vi phạm về
thời hạn đưa vụ án ra xét xử.
Về việc giải quyết vụ án: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông V,
bà T rút một phần yêu cầu Công ty K phải trả số tiền lãi là 88.291.350 do chậm
thực hiện việc bàn giao căn hộ và số tiền 160.000.000 đồng về chi phí thuê nhà.
Theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản buộc Công ty K phải tiến hành
các thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu căn hộ chung cư cho ông V, bà T là có cơ sở.
323
3
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
324
4
cơ quan chức năng cấp”. Ngày 24/12/2015 Công ty K đã bàn giao căn hộ cho
ông V, bà T nhưng cho đến nay Công ty K vẫn không tiến hành các thủ tục để
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ
cho nguyên đơn. Như vậy Công ty K đã vi phạm quy định tại mục 5.7 Điều 5
của Hợp đồng mua bán nói trên. Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 13 Luật kinh doanh
bất động sản có quy định về trách nhiệm của chủ đầu tư dự án kinh doanh bất
động sản như sau: “Trong thời hạn 50 ngày kể từ ngày bàn giao nhà, công trình
xây dựng cho người mua hoặc kể từ ngày hết hạn thuê mua thì phải làm thủ tục
để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên mua, bên thuê mua,
trừ trường hợp bên mua, bên thuê mua có văn bản đề nghị tự làm thủ tục cấp
giấy chứng nhận”. Xét, tại thời điểm Công ty K bàn giao căn hộ cho nguyên đơn
đến nay đã quá 50 ngày và nguyên đơn không có văn bản đề nghị tự làm thủ tục
cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ nhưng Công ty K vẫn chưa làm thủ
tục để cơ quan Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho nguyên
đơn là Công ty K vi phạm quy định nói trên của Luật kinh doanh bất động sản.
Do đó việc nguyên đơn yêu cầu Công ty K phải tiến hành các thủ tục để cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ chung cư
cho nguyên đơn là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
- Xét Giấy xác nhận ngày 25/12/2015 của Công ty K thì nguyên đơn còn
nợ Công ty K số tiền 39.830.659 đồng. Theo hợp đồng, số tiền này sẽ được
nguyên đơn trả hết cho bị đơn ngay sau khi bị đơn tiến hành các thủ tục xin cấp
Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ
án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn cũng như bị đơn không có yêu cầu gì về
số tiền này, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 13, Điều 16, Điều 17, Điều 18 và Điều 57 Luật kinh doanh
bất động sản;
- Căn cứ Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;
325
5
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1]. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương
Khắc V, Bà Nguyễn Thị Thanh T về việc yêu cầu Công ty cổ phần đầu tư và
phát triển địa ốc K bồi thường chi phí thuê nhà cho nguyên đơn là 160.000.000
đồng. Và đình chỉ xét xử việc yêu cầu Công ty cổ phần đầu tư và phát triển địa
ốc K trả số tiền lãi là 88.291.350 đồng.
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Trương Khắc V, Bà Nguyễn Thị
Thanh T.
Buộc Công ty cổ phần đầu tư và phát triển địa ốc K có nghĩa vụ làm thủ
tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho nguyên đơn ông
Trương Khắc V, Bà Nguyễn Thị Thanh T đối với căn hộ số 00, tầng 0, khối Z
thuộc dự án Cụm Cao ốc K – tại đường Q, Phường X, quận G, Thành phố Hồ
Chí Minh, ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật mà Công ty cổ phần đầu tư và
phát triển địa ốc K chưa làm thủ tục nói trên thì nguyên đơn ông Trương Khắc
V, Bà Nguyễn Thị Thanh T có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với căn hộ nói trên.
[2]. Án phí dân sự sơ thẩm: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển địa ốc K
không phải chịu án phí.
Trả lại cho nguyên đơn ông Trương Khắc V, Bà Nguyễn Thị Thanh T số
tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.207.284 đồng (sáu triệu hai trăm lẻ bảy ngàn hai
trăm tám mươi bốn đồng), theo biên lai thu tiền số 0000893 ngày 12/01/2017 của
Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án ngày trong
thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày
bản án được giao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
326
6
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự./.
327
Bài tập lớn học kỳ
328
329
330
331
332
333
334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363