Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ MINH PHƯƠNG
(Thích Đàm Hiền)
CHỮ HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT VÀ Ý NGHĨA
HIỆN THỜI CỦA NÓ
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ MINH PHƯƠNG
(Thích Đàm Hiền)
CHỮ HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT VÀ Ý NGHĨA
HIỆN THỜI CỦA NÓ
Chuyên ngành
Mã số
: Triết học
: 60220301
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS NGUYỄN THANH XUÂN
HÀ NỘI
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
không có sự hợp tác của ai, không sao chép hay dựa vào tác phẩm nào từ
trước đến giờ.
Luận văn này chưa nộp cho bất kỳ trường nào để được cấp phát bất kỳ
chứng chỉ hay văn bằng nào.
Các tài liệu tham cứu trích dẫn trong Luận văn là hoàn toàn trung thực.
Học viên
Lê Thị Minh Phương
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các nhà khoa học là các Giáo sư,
Tiến sĩ, các thầy cô giáo và những người đã trực tiếp giảng dạy và trau dồi kiến thức
cho tôi trong suốt khóa học này.
Đặc biệt tôi xin chân thành bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo
hướng dẫn - PGS.TS Nguyễn Thanh Xuân, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và
tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Hội đồng khoa học Khoa Triết
học của Học viện Khoa học xã hội. Xin chân thành cảm ơn toàn thể học viên, đồng
nghiệp và bạn bè đã động viên, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận
văn này.
Hà Nội, năm 2016
Học viên
Lê Thị Minh Phương
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
MỤC LỤC
MỞĐẦU....................................................................................................................1
Chương 1. CHỮ HIẾU VÀ MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CHỮ HIẾU.................7
1.1. Chữ Hiếu và đạo đức xã hội.................................................................................7
1.2. Chữ Hiếu theo quan niệm Nho giáo...................................................................12
1.3. Chữ Hiếu theo truyền thống Việt Nam ..............................................................19
Chương 2. CHỮ HIẾU THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO VÀ BIỂU
HIỆN CỦA NÓ........................................................................................................26
2.1. Khái quát về triết lý nhân sinh quan của Phật giáo............................................26
2.2. Quan niệm của Phật giáo về chữ Hiếu...............................................................35
2.3. Các biểu hiện cụ thể về ân Cha mẹ và giá trị đạo đức Phật giáo trong xã hội
ngày nay ....................................................................................................................52
Chương 3. Ý NGHĨA CHỮ HIẾU CỦA PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI
HIỆN NAY .................................................................................................. 67
3.1. Đạo đức xã hội và những vấn đề đặt ra về chữ Hiếu .........................................67
3.2. Phát huy chữ Hiếu của Phật giáo trong xã hội hiện nay ....................................72
KẾT LUẬN..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................81
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
MỞĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử dân tộc cho thấy Phật giáo đến Việt Nam đã gắn bó hài hòa với dân
tộc. Suốt hơn hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo Việt Nam đóng góp rất quan trọng
vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước và nền văn hóa dân tộc. Đó chính là tiếng nói
Từ Bi - Vô Ngã - Vị Tha và con đường sống Giới - Định - Tuệ, nhằm đưa đời sống
con người đạt tới Chân - Thiện - Mỹ.
Bước sang thế kỷ XXI là giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn minh khoa
học, giai đoạn mà con người có thể thỏa mãn về các nhu cầu vật chất. Từ nền văn
minh thủ công lấy lao động chân tay làm chủ yếu, con người đã tiến tới văn minh
đại công nghiệp với lao động chủ yếu bằng máy móc, con người có thể ngồi một
chỗ để điều khiển mọi thứ. Tuy thế, chúng sinh vẫn bị khổ đau và con người chưa
được hạnh phúc thực sự. Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhân loại
đã có những bước tiến dài về kinh tế, nhưng mặt trái của nó là lối sống chạy theo lợi
nhuận mà bất chấp tất cả: Vi phạm chuẩn mực đạo đức, truyền thống văn hóa, vi
phạm pháp luật,... Chính vì vậy mà muốn có hạnh phúc thì con người cần phải sống
cuộc sống thương yêu, giúp đỡ và chia sẻ lẫn nhau mới mong có được một xã hội
thái bình, tự do, bình đẳng và bác ái.
Một xã hội đầy tình người không thể được xây dựng bằng những con người
ích kỷ, ngạo mạn, tranh chấp, thù hận, vong ơn bội nghĩa,… Một xã hội thái bình
bác ái phải được xây dựng bởi những cá nhân biết tôn trọng, thương yêu giúp đỡ
người khác, gia đình là một xã hội thu nhỏ của nhân loại. Ở đây đạo đức con người
phải được thiết lập và xây dựng một cách bền vững. Vấn đề tình người đặt ra trong
gia đình là: Mỗi thành viên trong gia đình phải biết Hiếu với cha mẹ, phải thuận
thảo với anh chị em ruột thịt, phải có nghĩa với bà con xóm giềng. Làm như vậy là
làm tròn bổn phận của con người trong chuẩn mực đạo đức của gia đình và xã hội.
Và hiển nhiên rằng một người có hiếu với cha mẹ thì cũng có tình, trung, nghĩa,
nhân. Bất cứ ở một xã hội nào, một thời đại nào, ân nghĩa cao cả của cha mẹ cũng
được đền đáp, lòng hiếu thảo của con cái luôn được xem là tấm lòng đẹp nhất và
1
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
nhân loại luôn ca ngợi những người có hiếu. Hạnh hiếu chính là việc làm đầu tiên
của con người có tình người và là việc làm thiết thực đúng đắn của tinh thần biết ơn
và trả ơn.
Hiếu là một phạm trù của đạo đức xã hội, là một đức tính cơ bản để xây dựng
con người có tình người. Từ “Hiếu tâm” mà nó phát sinh ra các đức tính khác như:
Nhân - Lễ - Trung - Nghĩa… Trong Đạo đức - Tình người, “Hiếu đạo” chính là việc
làm mang tình người lớn nhất và nó đứng đầu các hành động, đồng thời hiếu hạnh
cũng là đức hạnh đứng hàng đầu của những đức hạnh con người. Từ tâm hiếu, tình
người được giáo dục tôi luyện, phát triển và được biểu lộ ra hành động, ra các hành
vi cư xử ở đời nhằm xây dựng tốt các mối quan hệ tương giao xã hội, an lạc, hạnh
phúc chung cho gia đình, tập thể. Hiếu tâm, đạo đức là con suối tình người chảy vào
văn hóa, giáo dục tạo nên các nền văn hóa, giáo dục nhân bản. Trong các nền văn
hóa này, thực chất của hiếu tình, trung nghĩa là chỉ một tình người cao đẹp. Người
có mặt tâm hiếu là có nhân, có tình, trung nghĩa.
Đây chính là lý do căn bản thúc đẩy người viết chọn đề tài: Chữ Hiếu trong
đạo Phật và ý nghĩa hiện thời của nó, làm luận văn thạc sỹ nhằm góp phần làm rõ
phạm trù chữ Hiếu trong Phật giáo.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiếu đạo vốn là một đạo lý có từ ngàn đời, nó tồn tại và phát triển trong
thế giới con người, vì từ muôn ngàn đời nay, tình yêu thương của cha mẹ dành
cho con cái không hề vơi cạn, nó luôn đong đầy theo dòng chảy thời gian để
dưỡng nuôi những mầm sống được lớn khôn và trở thành người hữu ích. Đối với
những dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và truyền thống đạo đức lâu đời như
dân tộc Việt Nam chúng ta, Hiếu đạo càng được đề cao và là một trong những
đạo lý cơ bản của dân tộc.
Có thể thấy mỗi xã hội, mỗi tôn giáo... đều có quan niệm khác nhau về đạo
đức và những đạo lý của con người, nhưng cùng có một điểm chung đó là đề cao
giá trị văn hóa, đạo đức của hiếu đạo. Nội dung thể hiện chính trong tư tưởng hiếu
đạo trong kinh điển Phật giáo, hay cụ thể hơn là luận bàn một số nét chính về chữ
2
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
“Hiếu” trong Phật giáo, một trong những tôn giáo đề cập và luận giải về đạo Hiếu
nhiều nhất, đầy đủ nhất và đặc biệt nhất trong các tôn giáo của nhân loại.
Truyền thống hiếu đạo thời kỳ này còn được thẩm thấu qua hàng loạt các
truyền thuyết, thần thoại như sự tích Bánh chưng - bánh dày (Lang Liêu và các
hoàng tử chúc thọ Hùng Vương), sự tích Quả dưa hấu (Mai An Tiêm biết mình bị
vu oan song vẫn tuân mệnh vua đi đày vì đạo Hiếu), truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy
Tinh (Mỵ Nương tuân theo sự sắp xếp của vua cha), Mỵ Châu - Trọng Thủy (An
Dương Vương giết Mỵ Châu vì bất hiếu, bất trung) v.v.. Dù rằng nguồn gốc các
truyền thuyết, thần thoại nói trên cần phải bàn thêm, song chúng đều phản ánh một
sự hoài niệm nào đó của lịch sử - xã hội.
Như vậy, đạo Hiếu bắt nguồn tự nhiên từ thực tiễn đời sống canh nông ở Việt
Nam. Nó vừa mang tính tôn ti vừa mang tính dân chủ do chịu ảnh hưởng của
phương thức định cư kiểu làng xã có tổ chức chặt chẽ và kiểu sản xuất nông nghiệp
lúa nước.
Nguyễn Du - Nhà thơ lớn của nước ta cuối thế kỉ XVIII, bằng tâm huyết và
tài năng trác tuyệt của mình đã xây dựng thành công kiệt tác "truyện Kiều". Trong
tác phẩm nói lên hình tượng nhân vật bất hủ là Thúy Kiều - Người con gái tài sắc
vẹn toàn Thúy Kiều là người con chí hiếu. Trước tai họa bất ngờ của gia đình, cha
bị vu oan, bị tra tấn dã man, nhà cửa bị lũ sai nha cướp phá tan hoang, trái tim Kiều
đau đớn như bị xé ra từng mảnh, dồn đến đường cùng và nàng phải bán mình chuộc
cha, một hành động cao đẹp ấy chính là lòng hiếu thảo.
Trong tác phẩm “Một số tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thanh Xuân, tác giả đã vẽ lên một bức tranh sinh động, khái quát về các tôn
giáo trên thế giới và ở Việt Nam, trong đó có đạo Phật. Tác giả đã đề cập đến ở
góc nhìn đa diện về Phật giáo nói riêng và các tôn giáo lớn khác nói chung về
sự ra đời, quá trình phát triển, đặc trưng giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức bộ
máy giáo hội, việc du nhập hoặc phát triển ở Việt Nam, mối quan hệ quốc tế và
thực trạng tôn giáo hiện nay.
3
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Trong những năm đầu thế kỷ XXI là cùng với việc tiếp thu những giá trị
nhân văn trong xu thế hội nhập, đồng thời phải phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống của gia đình Việt Nam, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
Chính vì thế, định hướng cơ bản cho gia đình Việt Nam phát triển bền vững trong
xu thế hội nhập quốc tế đã được Đảng và Nhà nước ta xác định trong Chỉ thị 49-
CT/TW (ngày 21 tháng 02 năm 2005) của Ban Bí thư về "Xây dựng gia đình thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Tư tưởng chủ đạo của văn bản quan trọng
này đòi hỏi chúng ta cần nhận thức rõ: Gia đình là một trong những nhân tố quan
trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Trong các công trình nghiên cứu trên, đạo hiếu của Phật giáo đã được nghiên
cứu ở các tầng bậc khác nhau. Mặc dù có rất nhiều dịch giả, tác giả, nhiều công
trình nghiên cứu đến chữ Hiếu đối với việc giáo dục đạo đức con người cũng đã
được đề cập song chỉ dừng lại ở những gợi mở khoa học, những tiếp cận ban đầu
hoặc tư tưởng phát sinh trong tổng thể một vấn đề lớn. Tuy nhiên, những nghiên
cứu trên là những nguồn tư liệu quý giá để tác giả kế thừa để hoàn thành bản luận
văn:“Chữ Hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa hiện thời của nó”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trong Luận văn phân tích rõ chữ Hiếu hay đạo Hiếu qua công ơn, cách biết
ơn, báo ơn và đền ơn đối với Cha mẹ qua lăng kính Phật giáo; từ đó chỉ ra và phân
tích đánh giá vai trò và ý nghĩa của chữ Hiếu đối với đạo đức xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào 3 nhiệm vụ chính như sau:
Thứ nhất: Chữ Hiếu và một số quan niệm về chữ Hiếu.
Thứ hai: Chữ Hiếu theo quan niệm Phật giáo và biểu hiện của nó.
Thứ ba: Ý nghĩa chữ Hiếu của Phật giáo trong xã hội hiện nay.
4
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chữ Hiếu theo quan điểm Phật giáo thể hiện
qua lễ hội Vu Lan và truyền thống uống nước nhớ nguồn, ý nghĩa hiếu hạnh của
người con đối với hai đấng sinh thành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu môi
trường tự nhiên, cụ thể là nghiên cứu: “Chữ Hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa hiện
thời của nó”.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để hoàn thành Luận văn tác giả dựa vào hệ thống giáo lý Kinh điển Đại
thừa không ngoài Tam tạng Thánh điển của Đức Phật. Ngoài ra, luận văn còn kế
thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đã được các tác giả đi trước công bố có
liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu: Phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh, đối chiếu để rút ra các kết luận, nhận định khoa học, quy nạp và
diễn dịch... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hóa tương đối đầy đủ về chữ Hiếu trong đạo Phật và phân tích ý
nghĩa hiện thời của nó.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
“Chữ Hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa hiện thời của nó” là nền tảng đầu tiên
cho quá trình nghiên cứu đồng thời với mong muốn từ kết quả nghiên cứu này góp
phần giúp những người học Phật và những người muốn tìm hiểu Phật pháp có một
tài liệu tham khảo về chữ Hiếu.
5
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, nội dung,
luận văn gồm 3 chương và 8 tiết.
Chương 1: Chữ Hiếu và một số quan niệm về chữ Hiếu
Chương 2: Chữ Hiếu theo quan niệm của Phật giáo và biểu hiện của nó
Chương 3: Ý nghĩa chữ Hiếu của Phật giáo trong xã hội hiện nay
6
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Chương 2
CHỮ HIẾU THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO
VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ
2.1. Khái quát về triết lý nhân sinh quan của Phật giáo
2.1.1. Khái quát về Phật giáo
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, là một tôn giáo lớn trên thế giới với hệ thống giáo
lý đồ sộ đã ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Phật giáo đã chỉ ra sự tồn tại của
con người là đau khổ (Khổ đế), chỉ rõ nguyên nhân của đau khổ (Tập đế), đưa ra
khả năng khắc phục sự đau khổ (Diệt đế) và đưa ra con đường thoát khỏi đau khổ
(Đạo đế). Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ II SCN, trải qua bốn giai
đoạn chính, đó là: Đầu công nguyên đến thời Bắc thuộc, hình thành và phát triển;
Thời nhà Lý, Trần phát triển cực thịnh; Đầu thế kỷ XX đến nay, diễn ra phong trào
phục hưng.
Tuy trải qua biến cố thăng trầm cùng lịch sử dân tộc như vậy nhưng vai trò
của Phật giáo vẫn không hề thay đổi mà ngày càng có những ảnh hưởng mạnh mẽ
trong đời sống tinh thần của người dân nước ta. Biểu hiện trong đời sống chính trị
và pháp luật; Trong văn học, ca dao dân ca; Trong quan niệm đạo lý, tư tưởng;
Trong phong tục, tập quán, tín ngưỡng; Trong ý thức thẩm mỹ, nghệ thuật; Trong
văn hóa;… Nhất là trong xu thế mở cửa hội nhập ngày nay, bên cạnh sự phát triển
của kinh tế-chính trị-xã hội là mặt trái với xu hướng suy thoái đạo đức nhân cách
con người, chính những tư tưởng tích cực trong triết lý nhân sinh của Phật giáo sẽ
góp phần điều chỉnh hành vi và nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới.
Phật giáo là một trong những học thuyết triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới và
đã tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý rất đồ sộ, được du nhập vào nước ta.
Ngoài những thành tựu đã đạt được về mặt kinh tế - văn hóa - xã hội là mặt
trái của nền kinh tế thị trường. Nó đã làm nảy sinh nhiều tiêu cực gây ra những ảnh
hưởng không nhỏ đến các mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu
về triết lý nhân sinh Phật giáo cùng với quá trình du nhập, tồn tại, phát triển của nó
26
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
tại Việt Nam sẽ làm nổi bật được những ảnh hưởng đến đời sống tinh thần nơi
người dân nước ta.
Phật giáo ra đời trong điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội, tiền đề nhận thức tư
tưởng Ấn Độ rất phức tạp. Khoảng thế kỷ VI-TCN đã xuất hiện nhà nước chiếm
hữu nô lệ với chế độ phân chia giai cấp. Xã hội Ấn Độ thời bấy giờ chia làm bốn
giai cấp: Giai cấp Bà la môn (Brhmanes); Sát-đế-ly (Kastryas); Phệ-xá (Vaisyas);
Thủ-đà-la (Suddra); Và 4 trào lưu tư tưởng là: Bà- la-môn giáo chính thống; Trào
lưu tín ngưỡng tập tục; Trào lưu triết học; Trào lưu phản Phệ-đà.
Người sáng lập ra đạo Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni - “Đấng giác ngộ, toàn
trí, toàn năng”, tên Ngài là Gauthanma Shiddartha, sinh 8/4/623 TCN, trước chúa
giáng sinh 544 năm tại Kapilavatsu. Theo Phật giáo Bắc truyền, năm 29 tuổi xuất
gia, theo Phật giáo Nam truyền năm 19 tuổi xuất gia, 5 năm tầm sư học đạo, 6 năm
tu khổ hạnh chốn rừng già, 49 ngày đêm ngồi Thiền định dưới cội Bồ Đề, khi sao
mai vừa rạng Ngài đã chứng quả vị giải thoát, ngài đã đi chu du khắp xứ thuyết
pháp độ sinh, trải qua 49 năm hoằng hóa, năm 80 tuổi Ngài nhập Niết Bàn.
2.1.2. Triết lý nhân sinh của Phật giáo
Theo lý luận, triết lý nhân sinh của một học thuyết tư tưởng đều xuất phát từ
thế giới quan, do thế giới quan chi phối. Mặt khác, với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội, nhân sinh quan còn chịu sự chi phối của tồn tại xã hội và các tác động
của các hình thái ý thức xã hội khác. Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận
cho chúng ta khi tiếp cập và nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo.
Chúng ta có thể khái quát: nhân sinh quan Phật giáo là hệ thống quan
điểm của Phật giáo về con người, đời sống của con người. Hệ thống quan điểm
này chịu sự chi phối của thế giới quan, của tồn tại xã hội Ấn Độ cổ trung đại và
bởi các ý thức xã hội khác. Trong phạm vi bài tiểu luận, tác giả sẽ phân tích
làm rõ một số nội dung cơ bản của Phật giáo về nhân sinh quan trong đó tập
trung phân tích, làm sáng tỏ quan điểm của Phật giáo về con người, đời sống
con người.
27
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Trước hết, quan điểm của Phật giáo về con người
Trái với quan điểm của kinh Vê đa, Upanisad, đạo Bàlamôn và các phái triết
học đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo và
chi phối vũ trụ. Phật giáo cho rằng con người không phải do thượng đế hay một
đấng thiêng liêng nào sinh ra. Con người là một pháp đặc biệt của thế giới vạn pháp
thể hiện trong thuyết danh sắc và thuyết Lục đại.
Thuyết Danh sắc cho rằng, con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và
tinh thần. Thuyết Lục đại, con người được cấu tạo từ sáu yếu tố bao gồm: Địa
(nghĩa là đất, xương thịt); Thuỷ (nước, máu, chất lỏng); Hoả (lửa, nhiệt khí); Phong
(gió, hô hấp); Không (các lỗ trống trong cơ thể); Thức (ý thức tinh thần). Trong 6
yếu tố này thì 5 yếu đầu thuộc về vật chất, chỉ có một yếu tố cuối cùng thuộc về tinh
thần. So với thuyết Danh sắc thì thuyết Lục đại xét cấu tạo con người nghiêng nặng
về vật chất còn thuyết Danh sắc gần như có sự cân bằng, hài hoà giữa hai lĩnh vực
vật chất và tinh thần. Trong khi đó, Thuyết Ngũ uẩn: xem con người được cấu tạo
từ năm yếu tố: Sắc (vật chất bao gồm địa, thuỷ, hoả, phong); Thụ (tình cảm, cảm
giác con người); Tưởng (tưởng tượng, tri giác, ký ức); Hành (ý thức, những yếu tố
khiến tâm hoạt động); Thức (ý thức theo nghĩa rộng gồm cả thụ, tưởng, hành).
Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ biến
hơn cả.
Con người gồm hai bộ phận: thể xác và linh hồn. Phần sinh lý - sắc uẩn là
thân tướng, hình sắc được giới hạn trong không gian bằng xương, thịt, da được tạo
thành từ bởi bốn yếu tố vật chất gọi là tứ đại: đất, nước, lửa, gió. Tứ đại tạo nên
thân tướng, hình sắc của con người cụ thể là: đất tạo ra các phần cứng như xương,
lông tóc, lục phủ, ngũ tạng; nước tạo ra chất lỏng như máu, mật, mồ hôi; lửa tạo nên
than nhiệt; gió tạo thành hơi thở, hơi khí trong cơ thể.
Phần tâm lí hay ý thức tinh thần gồm: thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn
được biểu hiện bằng thất tình: ai (thương), ái (yêu), ố (ghét), hỷ (vui), nộ (giận), lạc
28
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
(sướng), dục (muốn). Phần tâm lí bao giờ cũng dựa vào phần sinh lí, hay nói cách
khác không thể có tinh thần ý thức ngoài cơ thể vật chất.
Con người thực chất chỉ là giả hợp của ngũ uẩn, khi ngũ uẩn kết hợp lại gọi
là sinh khi ngũ uẩn tan ra gọi là diệt. Do đó không có cái ta, hay cái ta cũng chỉ là
giả tướng không có thật ”, gọi là “nhân vô ngã” (nhân không). Con người được tạo
thành từ Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể thường tự tại. Con người là sản vật, tự
nhiên không có hình thái cố định của tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất trên thế
giới nên dần hình thành khối vật chất thô kệch có sự phân biệt tính cách, mầu da.
Phật giáo không cho rằng con người sau khi chết là hết, Phật giáo giải thích
con người sau khi chết bằng thuyết Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi. Theo quan
niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ thống nhân duyên của
nhau, cứ thế sinh sinh, diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng tận; thế giới là vô thuỷ vô
chung, không có cái gì là trường tồn bất biến. Mọi cái đều biến đổi vận động không
ngừng, không có cái vĩnh hằng; mọi vật đều tuân theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Con
người cũng thuộc về thế giới hiện tượng. Thân xác con người được đề cập trong
thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo.
Khi một con người tồn tại tức là khi mang thân ngũ uẩn đều có ba hoạt động
chính: hoạt động thông qua các hành vi, do hậu quả việc làm của ta, do hành động
của thân thể ta gọi là “thân nghiệp”; còn những hậu quả do lời nói của ta, phát ngôn
của ta thì được gọi là “khẩu nghiệp”; hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tư của
ta gây nên thì được gọi là “ý nghiệp”. Cả ba hoạt động về thân-khẩu-ý đều thuộc hai
phạm trù thiện ác. Theo luật nhân quả, tất cả các hoạt động về thân-khẩu-ý, thiện ác
đó sẽ tạo ra nghiệp lực để báo ứng về sau (gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý
nghiệp), tức là gieo nhân, gieo nghiệp cho sự kết hợp ngũ uẩn mới. Một ngũ uẩn
mới tập hợp tức là một con người mới được sinh ra, lại hoạt động, lại gieo nhân,
gieo nghiệp chuẩn bị cho sự kết hợp của ngũ uẩn tiếp theo. Cứ như thế kéo con
người vào vòng luân hồi sinh tử không ngừng không dứt từ đời này qua đời khác,
kiếp này qua kiếp khác.
29
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Phật giáo cho rằng con người ở kiếp này phải chịu quả báo về những việc
làm của họ ở kiếp trước. Con người hiện tại là quả của con người quá khứ nhưng
đồng thời là nhân của con người tương lai. Với thuyết nhân quả, nghiệp-nghiệp báo,
Phật giáo cho rằng không có một hành vi thiện ác nào của con người, dù là nhỏ bé,
dù được bưng bít che đậy cũng không tránh khỏi quả báo về sau.
Thứ hai, quan điểm Phật giáo về cuộc sông của con người
Mục đích cuối cùng và tư tưởng chủ đạo có tính xuyên suốt trong toàn bộ
học thuyết nhân sinh là tư tưởng giải thoát chúng sinh khỏi kiếp sống trầm luân đau
khổ để đạt được sự giải thoát. Phật giáo bác bỏ Braham và Atman, nhưng lại tiếp
thu tư tưởng luân hồi Samsara và nghiệp Karma của Upanisad cho rằng, mọi vật
mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác, trong quá trình biểu hiện sinh tử theo
nghiệp nhân quả luân hồi. Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn chân lý
tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người phải thực hiện. Đó là tứ diệu đế: Khổ đế, tập
đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế - triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là
khổ. “Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể
khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng
sinh mặn hơn nước biển”.
Có thể nói, quan niệm về “Khổ” đế nói lên bản chất của triết lý nhân sinh
trong học thuyết Phật giáo. Quan niệm này mang tính tiêu cực, yếm thế, coi đời chỉ
là ảo hoá tạm bợ do vô minh, con người không nhận thức được điều đó, do đó cứ
lặn lội mãi trong biển sinh tử, luân hồi. Cuộc đời con người đầy dẫy nhưng nỗi khổ,
nhưng không ai nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Tất cả nỗi khổ của con người được
phản ánh trong lý thuyết: bát khổ bao gồm: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng
hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ. Đây là là sự cụ thể hoá, tỉ mỉ hơn về các nỗi
khổ của chúng sinh ở trần thế.
Sinh khổ: Con người khi sinh ra đã cất tiếng khóc chào đời; trước đó còn ở
trong bụng mẹ thì chật chội, tăm tối; người mẹ mang thai thì vất vả, mệt nhọc, kém
30
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với người khác. Và khi con người có mặt
trên đời đã là khổ.
Lão khổ: Trong cuộc sống hàng ngày, con người muốn tồn tại được thì trước
hết phải ăn, uống, mặc ở, sinh hoạt, đi lại …Muốn vậy, con người phải lao động hết
sức vất vả, cực nhọc, tất bật trong công việc. Đó là về mặt vật chất, còn những nỗi
khổ về tinh thần dày vò con người cũng không kém nỗi khổ về vật chất, nó làm cho
con người suy kiệt, ốm yếu, già nua …
Bệnh khổ: Con người đến lúc tuổi cao, thân thể hao mòn già yếu các giác
quan, hoạt động kém; mắt mờ, chân chậm, tai điếc…dễ sinh bệnh tật gây đau ốm
cho người bệnh và người thân xung quanh.
Tử khổ: Đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế để
lại nỗi sót thương vô hạn cho người thân, bè bạn. Ai cũng vậy, sợ phải xa lìa người
thân, bè bạn, bởi cuộc sống có biết bao điều thú vị. Đó là nỗi khổ của con người.
Ái biệt ly khổ: Nỗi khổ khi phải xa cách, chia ly người mình mến thương
như vợ chồng, cha mẹ, anh em … Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt ly:
Sống phải xa nhau đã khổ, nhưng người ở lại người đi vào thế giới khác thì đó là
nỗi khổ tình thương, tuyệt vọng biết nhường nào.
Oán tăng hộ khổ: Nỗi khổ vì sống cùng với người mà mình không hề yêu
thích; ở chung những người như vậy giống như gai đâm vào mắt mà không làm
gì được.
Sở cầu bất đắc khổ: Là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước ao mà
không đạt được, con người phải lao tâm, khổ tứ biết bao, mong có được ngày thành
đạt; nếu điều đó không thành thì nỗi khổ ấy thật khủng khiếp dày vò, khiến con
người tuyệt vọng…
Ngũ thụ uẩn khổ: Gây ra bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm cho thân tâm
phải chịu hết thảy những nỗi khổ. Thích Ca nói với chúng sinh: Già là khổ, bệnh
khổ, chết khổ, cái gì của ta mà phải xa rời là khổ, cái gì không ưa thích mà phải hợp
là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ.
Có thể nói, với học thuyết về “khổ đế” Phật giáo đã khái quát những nối khổ
lớn nhất của đời người. Với lòng từ bi thương người của mình, Phật muốn chúng
31
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
sinh biết hết mọi nỗi khổ ở đời để khi gặp phải không làm cho tinh thần hoảng loạn,
mà phải biết bình tĩnh suy xét tìm cách giải khổ, làm chủ được bản thân, vượt lên
trên số phận. Điều này cho thấy, Phật giáo không hề trốn tránh cuộc sống trần gian,
cũng như không tô hồng nó, mà đã dũng cảm nhìn vào hiện thực cuộc sống con
người.
Cùng với việc chỉ ra nỗi khổ của con người, Phật giáo cũng chỉ ra nhưng
nguyên nhân cơ bản, điều này thể hiện trong thuyết Nhân đế (hay còn gọi là tập đế).
Tập đế, nói đến sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Phật giáo
cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó đồng thời khái quan nên mười hai
nguyên nhân của nỗi khổ (thập nhị nhân duyên).
Trong mười hai nguyên nhân, Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai nguyên
nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Vô minh là không sáng suốt, không
nhận thức được thế giới, không thấy mọi sự vật đều là ảo giả, mà cứ cho là thực;
không nhận thức được ngay chính bản thâm mình, cả thế giới khách quan lẫn bản
thể chủ quan đều chỉ là vô thường vô ngã trong vòng luân hồi, trôi chảy bất tận,
chính cái này dẫn đến lòng tham sống ở trong con người. Phật giáo nói đến đau khổ
chủ yếu chỉ là tinh thần bức bách. Sự kết hợp giữa ái dục và vô minh xuất phát từ
nguồn gốc của ba thứ mà Phật gọi là tam độc, đó là: Tham, sân, si.
Tham, là biểu hiện sự tham lam của con người, xúi dục con người hành động
để thoả mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con người không có giới hạn, đây
là nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con người như chém giết, xâm hại lẫn
nhau.
Sân, là sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con người không hài lòng về điều
gì đó, làm cho con người không kiểm soát hết hành động của mình (giận quá mất
khôn); như thế cũng đem lại những điều khổ đau, không hay cho con người. Sách
Phật ghi rằng, một đốm lửa giận có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức và một
niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn, cửa nghiệp chướng mở.
32
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Si, là sự si mê, lú lẫn, làm cho con người không phân biệt điều hay dở; điều
đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi người. Nếu tham, sân nổi lên mà có trí sáng
suốt sẽ ngăn chặn được tham, sân.
Bên cạnh vô minh và ái dục, Phật giáo còn chỉ ra 10 nguyên nhân khác đó là:
Duyên hành: là hành động có ý thức; ở đây đã có sự dao động của tâm, có
mầm mống của nghiệp.
Duyên thức: tâm thức từ chỗ cân bằng trong sáng đến dần mất cân bằng,
tuỳ theo nghiệp mà tâm thức tìm đến các nhân duyên để hình thành cuộc đời
khác.
Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất tinh thần; với các loài
hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, trầm sức, thanh,
hương, vị, xúc, pháp.
Duyên lục nhập: quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp xúc
với lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên xúc: là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là quả
của lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
Duyên thụ: là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu,
ghét, buồn, vui.
Duyên ái: là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn.
Duyên thủ: tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng tỏ có
nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
Duyên sinh: đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện hữu là tu
sinh ra ở thế giới để làm người, hay súc sinh.
Duyên lão tử: đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh - lão - bệnh - tử là
kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu
một vòng luân hồi mới. Cứ như thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử.
Mười hai nhân duyên có quan hệ mật thiết với nhau, cái này làm nhân, làm
duyên cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời làm nhân cho cái kia.
33
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Cùng với việc khẳng định cuộc đời là bể khổ, việc xác định thập nhị nhân
duyên dẫn đến khổ, Phật giáo khẳng định nỗi khổ có thể tiêu diệt được, có thể chấm
dứt khỏi vòng luân hồi với tư tưởng về Diệt đế. Phật giáo khuyên chúng sinh phải tu
dưỡng thân tâm, đoạn trừ “vô minh”, để cho Phật tính bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn
pha dẫn bước chúng sinh đến cõi niết bàn. Diệt đế nói lên thế giới của sự giải thoát,
thế giới không còn khổ đau.
Về con đường giải thoát bể khổ của Phật giáo thông qua thuyết Đạo đế tập
trung trong tư tưởng về bát chính đạo thực chất là diệt trừ vô minh. Đây là con
đường tương đối phổ biến, là môn pháp chính được đề cập đến nhiều nhất đến nỗi
có người lầm tưởng đạo đế và bát chính đạo là một.
Chính kiến: là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về tứ diệu đế, hiểu đúng
sự vật khách quan. Người ta có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi
hành động, tâm trí sáng suốt.
Chính tư duy: sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành theo
chính tư duy biết suy xét vô minh là nguyên nhân của khổ đau, tìm ra phương
pháp tu luyện để thoát khổ cho mình và mọi người; đó là diệt trừ vô minh, tam
độc.
Chính ngữ: Lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong lời
nói cụ thể; không nói dối, không tạo ra sự bất hoà giữa mọi người, không nòi lời ác
dữ, không thừa lời vô ích. Người tu hành trước khi nói năng phải suy nghĩ tới người
nghe, nói lời đoàn kết dịu hiền.
Chính nghiệp: Đức Phật dạy chúng sinh rằng: Nếu là tà nghiệp như sát sinh,
trộm cắp, tà dâm, thì phải cải tạo, cải tà quy chính, làm điều thiện tránh điều ác.
Còn nếu là chính nghiệp việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho mọi người thì phải giữ
gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Thân nghiệp là
không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; ý nghiệp là không tham dục, không
nóng giận, không tà kiến.
Chính mệnh: Lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con người;
không tham lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính; sống chân
34
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
chính bằng nghề nghiệp chính đáng. Có thể nói đây là phong cách sinh hoạt lành
mạnh giúp cho con người luôn thoải mái nhẹ nhàng.
Chính tinh tiến: Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác;
không quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải chủ
động tích cực trong việc tìm kiếm, truyền bá chân lý của Phật.
Chính niệm: Trong đầu óc con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng,
ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường xuyên
niệm Phật.
Chính định: Sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý,
tĩnh lặng suy tư về tứ diệu đế của vô ngã vô thường về nỗi khổ của con người, là cơ
sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao.
Với việc tập trung theo bát chính đạo con người sẽ tự ý thức, sửa mình từ bỏ
mọi tội lỗi, tu thân tích đức như thế con người sẽ đạt tới sự hoàn thiện. Đây có thể
coi là cơ sở, động lực để tạo ra sự yên bình, hạnh phúc không những trong xã hội
hiện tại mà cả xã hội tương lai, bởi nhân nào quả ấy. Một lần nữa cho thấy, những
giá trị nhân sinh sâu sắc của phật giáo được khẳng định. Đức Phật đã rung động
trước nỗi khổ của chúng sinh. Từ đó mà đi tìm phương thuốc cứu giúp cho chúng
sinh, tìm ra lối đi của sự tự do tuyệt đích, của hạnh phúc yên bình chính là con
đường diệt khổ.
Phật giáo lấy việc giải thoát đau khổ làm trọng tâm tư tưởng trong giáo lý
của mình. Tinh thần triết lý nhân sinh mà Phật giáo đòi hỏi trách nhiệm về đạo đức
làm người, không được làm ngơ trước nỗi khổ của người khác, phải toàn tâm toàn ý
cứu khổ cho mọi người … Đó cũng là yêu cầu đối với chính mình, mình có thực
hiện tốt thì mới hy vọng thoát khổ. Phật giáo không lấy giáo lý làm trọng, mà chỉ
coi đó là phương tiện để đạt đến chân lý cuối cùng. Cái cốt của nó là sự thực
hành của mỗi cá nhân đạt đến sự giác ngộ, tu thành đạo quả, chứ không phải
nghe giảng để hiểu đạo. Mặc dù vậy, nhân sinh quan Phật giáo vẫn thể hiện triết
lý nhân sinh sâu sắc - đó cũng là giá trị lớn nhất trong triết học Phật giáo.
2.2. Quan niệm của Phật giáo về chữ Hiếu
35
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Chữ Hiếu ở đây người ta thường hiểu là việc làm của người con biết ơn và
báo ơn đối với bậc sinh thành dưỡng dục của mình là Cha và Mẹ. Theo Thiều Chửu
- Hán Việt từ điển, Hiếu có 2 nghĩa:
Một là: Hiếu thảo với cha mẹ, con thờ cha mẹ hết lòng gọi là Hiếu
Hai là: Đồ tang phục gọi là Hiếu
Trong Kinh Thi có câu: “Có Hiếu tức là có Phúc”
Theo Phật Quang đại từ điển: Hiếu là lòng kính yêu và biết ơn cha mẹ. Hiếu
còn gọi là hiếu thuận, hiếu dưỡng.
Như vậy, Hiếu có nghĩa là: Nuôi dưỡng phụng sự cha mẹ một cách thuận
thảo, vâng lời cha mẹ, làm theo những lời cha mẹ dạy. Đồng thời nên xem xét ý tứ
của cha mẹ để làm người vui lòng. Trong cuộc sống, việc thờ cúng và những việc
làm thể hiện sự tôn kính đối với tổ tiên cũng được gọi là Hiếu.
Hơn nữa, Hiếu chỉ cho tang phục, người đang có tang mẹ hay cha khi qua
đời, người con có hiếu trong ba năm phải mặc áo vải thô hay vải gai, những việc
trang điểm đều bỏ cả... Đó chính là biểu hiện lòng thương tưởng đến cha mẹ mình.
Điều này thể hiện tinh thần tri ân của người con hiếu thảo sống có đạo.
Theo quan niệm xuất thế gian: Hiếu là hướng dẫn Cha mẹ sống đời đạo đức,
thực hành bố thí, xa lánh con đường tham - sân - si để hướng đến ánh sáng trí tuệ
giải thoát. Phật dạy “Hiếu xuất thế gian là cắt ái từ thân, thâm nhập vào vô vi chi lý,
thượng thù võng cực chi ân, hạ tế tam đồ chi khổ”. Nghĩa là Hiếu hạnh của người
xuất gia là cắt đứt tình thương trong lục thân quyến thuộc, xa lìa cha mẹ đi sâu vào
lý vô vi, trên đền bốn ân, dưới cứu giúp ba đường.
Trong các kinh điển đều nêu rõ bổn phận làm con phải biết hiếu dưỡng, hiếu
hạnh, hiếu tâm và hiếu đạo với Cha mẹ.
Hiếu dưỡng: Là cung phụng món ăn, vật lạ cho Cha mẹ, khi cha mẹ ốm phải
lo thuốc thang đầy đủ.
Hiếu hạnh: Là ta luôn giữ mình trong mọi hành động đừng để mọi người chê
bai ta là con người xấu làm ảnh hưởng đến Cha mẹ.
36
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Hiếu đạo: Là hướng dẫn Cha mẹ sống đời thánh thiện, an trú trong chính
Pháp và biết quy y Tam Bảo.
Bậc cổ đức có dạy: “Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phương thành tựu”
nghĩa là cha mẹ được giải thoát lìa khỏi trần ai thì người con mới tròn hiếu đạo. Ở
nước ta, văn hiến nước nhà có tới bốn ngàn năm lịch sử, với bao nhiêu thăng trầm
và có sự tiếp biến văn hóa từ nhiều nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới;
đặc biệt là sự ảnh hưởng từ văn hóa Nho giáo phương Bắc.
Phật giáo cùng với hai nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam - một dân tộc
với tinh thần yêu nước sâu sắc đã nghiễm nhiên chấp nhận truyền thống Hiếu đạo
của Phật giáo. Phật giáo Việt Nam lấy ngày 15 tháng 7 âm lịch hàng năm làm ngày
báo đền ân đức Cha Mẹ. Thực tế tinh thần hiếu đạo ngày của Phật giáo không chỉ
đơn thuần là chỉ có một ngày Vu Lan, mà tinh thần đó hầu như được đề cập trong
toàn bộ hệ thống giáo lý đạo đức của Phật giáo.
Thật vậy, không có một nền văn hóa nào không đề cập và đề cao chữ “Hiếu”,
chỉ có ít nhiều, cao thấp khác nhau. Ở phương Tây có “Ngày nhớ ơn mẹ” (Mother’s
day) là ngày chủ nhật lần thứ hai của tháng 5 và “Ngày nhớ ơn cha” (Father’s day)
nhằm ngày chủ nhật thứ ba của tháng 6. Ở Việt Nam ta ngày nhớ ơn Cha Mẹ của
dân tộc được xem là ngày nhớ ơn Cha Mẹ của Phật giáo tức là ngày Vu Lan.
Truyền thống uống nước nhớ nguồn: Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, đó
là đặc điểm căn bản của giáo lý Phật giáo. Lòng từ bi xuất phát từ tình thương trong
mối quan hệ nghĩa nặng tình sâu của con cái đối với Cha Mẹ, lan dần ra xã hội và
trải rộng ra mỗi con người chúng ta. Tình cảm thiêng liêng, sâu xa nhất là tình yêu
thương Cha Mẹ, nó đã ăn sâu vào tâm tư của mỗi con người từ muôn đời.
Hòa thượng Thích Trí Quảng đã viết: Con người tồn tại trên cuộc đời đều có
sự tương quan tương duyên với nhau gọi là lý nhân duyên, có ba mối tương quan.
Một là: “Mối quan hệ và huyết thống giữa ta với Cha Mẹ, ông bà, tổ tiên đã
có vô thủy kiếp, tức không xác định được khởi điểm xuất phát nhưng chắc chắn
giữa mỗi người với ông bà tổ tiên dòng họ của mình vẫn có sự liên hệ hỗ tương cho
đến ngày nay. Đó là sự liên hệ về tâm thức được truyền nối liên tục từ đời sang đời
37
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
khác, gọi là nghiệp. Trong sắc thân hiện tại của ta, về tư duy hàm chứa tâm thức của
ông bà, Cha Mẹ”.
Hai là: Mối quan hệ giữa con người với xã hội.
Ba là: “Mối quan hệ giữa con người với các bậc Bồ Tát” [5, tr. 4]
Như vậy, ý thức trách nhiệm của người con là cảm nhận được mối quan hệ
và ân đức của hai đấng sinh thành dưỡng dục, Cha Mẹ đã trải qua bao nhiêu năm
tháng đêm ngày lo lắng, vất vả để nuôi ta khôn lớn thành người. Suốt cuộc đời Cha
Mẹ tận tụy hy sinh cho con, chăm bẵm, nuôi nấng, cung cấp các món cần dùng, dạy
dỗ con cách sống ở đời, làm cho con vui, không bao giờ xao lãng, nhớ và thương
con như bóng theo hình. Công ơn sâu dày ấy làm sao chúng ta quên được. Trong
Kinh Thi đề cập: Cha sinh ra ta, Mẹ nuôi ta. Hỡi ơi! Cha Mẹ sinh ta cực nhọc, muốn
đáp đền công ơn Cha Mẹ như với lên trời cao chẳng cùng.
Cha sinh ta, Mẹ nuôi ta,
Nhớ thươngCha Mẹ xót xa tấm lòng
Thương con cực khổ ẵm bồng,
Trời cao vời vợi khó mong đáp đền
Khi nói đến mùa thu tức là nói đến mùa Vu Lan hay là “Mùa Báo Hiếu”,
chúng ta đều liên tưởng đến hình ảnh Ngài Mục Kiền Liên, nguyện noi theo gương
hiếu hạnh của Ngài để đền đáp công ơn Cha Mẹ. Đó là một truyền thống tốt đẹp, lâu
đời của dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn nhớ đến công ơn sự nghiệp ngàn xưa của
ông bà tổ tiên. Truyền thống từ nghìn xưa đó đã được trao truyền, giữ vững từ thế hệ
này sang thế hệ khác cho đến ngày nay và mãi ngàn sau.
Nội dung được đề cập trong “Chữ Hiếu trong đạo Phật”. Vậy Hiếu là gì?
Hiếu chính là sự biểu hiện đức tính cao thượng của con người trong hầu hết các
nền văn hóa của nhân loại. Đó là thái độ sống bày tỏ sự biết ơn, nhớ ơn công đức
sinh thành dưỡng dục đối với ông bà, Cha Mẹ hiện tại và trong vô lượng kiếp.
Hiếu cũng chính là sợi dây thân ái nối kết giữa mọi người, gia đình, thân tộc và
tình dân tộc. Kinh Phạm Võng đã nâng cao: “Hiếu thuận là phép chí đạo cho nên
lấy hiếu làm giới”. Kinh Mạ Ý dạy: “Giữ giới chính là để hiếu thuận báo ơn Cha
Mẹ” [45, tr. 37].
38
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Như vậy, nói đến hiếu là nói đến sự đáp đền ân nghĩa là một cách nói. Thực
sự, nếu cuộc sống và con người là thiêng liêng vô giá thì hiếu đạo cũng thế, là nghĩa
sống cao đẹp, không phải chỉ là một mối tương quan xã hội có tính cách ước lệ như
luật pháp ấn định. Do các nền văn hóa khác nhau nên quan niệm về chữ hiếu và
hình thức báo hiếu cũng khác nhau.
Tác giả Nguyễn Thế Đăng quan niệm rằng: “Hiếu là phong tục tốt đẹp,
từ việc giới hạn trong một gia đình đã trở thành thái độ sống đối với con người
và thế giới. Thực hành thái độ sống ấy, con người dần dần trở nên toàn diện và
toàn thiện” [24, tr. 32].
Trong Kinh có dạy: Hiếu là trên hết, hiếu là tất cả, là Mẹ của tất cả công đức
lành, Mẹ của tất cả những phương pháp tu hành để thành Phật.
Chữ hiếu trong đạo Phật bao gồm: Hiếu đạo (Là hướng dẫn Cha Mẹ sống đời
Thánh thiện, an trú trong chính pháp và biết quy y Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật,
làm lành, lánh dữ, giúp Cha Mẹ được giải thoát thì người con đó mới là hiếu đạo) -
Hiếu tâm (tâm luôn luôn nhớ đến Cha Mẹ dù bất cứ ở nơi đâu) - Hiếu dưỡng (là
cung phụng thực phẩm cho Cha Mẹ, khi Cha Mẹ bệnh đau phải thuốc thang đầy đủ)
- Hiếu hạnh (Luôn giữ mình trong mọi hành động khi hầu hạ Cha Mẹ, hết lòng cung
kính lễ phép. Khi nói chuyện với Cha Mẹ lựa lời mà nói cho phải đạo làm con,
không được tỏ ra xem thường và bất hiếu với Cha Mẹ) v.v….
Hòa Thượng Thích Thanh Từ đã nói: “Hiếu thảo là chất liệu thiết yếu trong
xã hội Việt Nam, vì thế trong tinh thần dân tộc Việt Nam, ai cũng đặt chữ hiếu lên
trên tất cả” [55, tr. 41].
Hiếu được đặt thành Kinh, đủ thấy tính chất của hiếu vô cùng quan trọng,
hiếu không còn hạn hẹp trong vấn đề “tận tâm kính dưỡng Phụ Mẫu”.
Hiếu đối với Cha Mẹ khi còn sống, cũng như lúc qua đời. Bổn phận làm con
phải cung kính như thế nào? Tức là hết lòng yêu kính và nuôi dưỡng Cha và Mẹ.
Theo tinh thần Phật giáo, hiếu thảo với Cha Mẹ hiện đời cũng như Cha Mẹ
trong quá khứ, đúng nghĩa nhất là chúng ta phải biết kính trọng, vâng lời Cha Mẹ
dạy, phụng dưỡng Cha Mẹ, sớm thăm tối viếng khi Cha Mẹ đau ốm. Nếu Cha Mẹ
39
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
chưa quay về với chính pháp, quan trọng nhất phải tìm cách hướng dẫn Cha Mẹ quy
y Tam Bảo, trở thành người Phật tử chân chính.
Trong sách Đạo đức người xuất gia, tác giả Nguyên Hùng có viết: “Muốn
báo ân đức dưỡng dục cao dày của Cha Mẹ, việc nhỏ thì tận tâm tận lực phụng thờ
Cha Mẹ, khá hơn một chút thì làm cho Cha Mẹ được vui, còn xa hơn nữa thì làm
cho Cha Mẹ phát khởi tâm Bồ đề, hướng dẫn tâm thức của Cha Mẹ đi vào chính
pháp” [9, tr. 85 - 86].
Đức Phật tán thán công ơn Cha Mẹ, khuyên nhớ ơn và đền ơn
Đối với ơn Cha: Tính Cha thì nghiêm nghị, nên công Cha ví như núi cao
sừng sững, non cao vời vợi, suốt đời vất vả vì con, chạy ngược chạy xuôi trên vạn
nẻo đường đời. Người Cha thân thương tuy đã già nhưng mỗi buổi sáng vẫn đi vào
các công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, đồn điền hay các cơ quan v.v… làm việc bằng
sức lao động của chính mình, đổ những giọt mồ hôi để đổi lấy bát cơm, tấm áo nuôi
con. Cha đã không ngại nắng mưa, sương gió, chịu bao nỗi đau thương. Chỉ mong
con khôn lớn và có ích cho đời.
Cha xem con là tinh hoa của mình, là sự kế thừa thiêng liêng, là tim máu mật
thiết muôn đời. Vì vậy, cho dù cuộc đời có lắm chông gai thử thách, bao nhiêu mồ
hôi nước mắt, bao nỗi đau thương, bao ngày tháng gian truân, Cha vẫn vững bước
trên mọi nẻo đường để dìu dắt, chăm sóc con thành người hữu dụng, khôn ngoan,
không thua chúng bạn, không hổ thẹn với đời.
Nếu như chúng ta bất hạnh sớm mất Mẹ thì Cha âm thầm lặng lẽ, đảm đương
mọi việc để nuôi con. Cha ngồi yên lặng như một pho tượng mà nhìn vào di ảnh
Mẹ, từng hơi thở ra vào, với đôi mắt đăm chiêu vào cõi xa xăm nào đó. Cha vừa
làm Mẹ vừa làm Cha, như gà trống nuôi con, vất vả, lo toan mọi việc.
Người Cha già hằng ngày sớm hôm làm lụng vất vả, kiếm tiền nuôi con, chịu
biết bao gian truân khổ nhọc. Dù cho Cha có ốm đau tiều tụy thế nào đi nữa, Cha
vẫn có một sức mạnh phi thường để chịu đựng những cam go thử thách trong cuộc
đời để che chở cho con khôn lớn. Mỗi bước chân con đi, đều có sự theo dõi dìu dắt
40
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
của Cha. Cha là nơi nương tựa duy nhất, Cha là ánh sáng chói chang sởi ấm lòng
con khi băng giá. Cha là trời cao lồng lộng, Cha là điểm tựa, là bóng mát che chở
cho con. Thiếu tình thương của Cha con khó lớn khôn được. Thế nên, Tiểu Viên đã
diễn tả:
Tài năng chân chất hiền lành
Nghiêm thân tự lập thơm danh một thời
Đơn sơ bình dị thế thôi
Cha cho con cả khung trời nhớ thương
Câu chuyện vua A Xà Thế cho chúng ta biết tình thương Vua cha Bình Sa
Vương đối với A Xà Thế như thế nào? Vì một chút danh vọng cao hứng, nghe lời
xúi giục của Đề Bà Đạt Đa mà ông chiếm đoạt ngôi Vua, giam Cha trong ngục tối,
ra lệnh không ai được phép viếng thăm, ngoại trừ Mẹ là hoàng hậu Vi Đề Hy. Mỗi
lần vào thăm chồng, bà giấu thức ăn trong túi, trong búi tóc mang cho chồng. Hơn
thế nữa, nỗi đau đớn trước khi vào thăm, bà phải tắm sạch sẽ, xoa vào thân thể bà
một thứ đồ ăn làm bằng mật ong, đường và sữa để cho Vua dùng. Rủi thay, những
việc làm thương tâm đó đều bị A Xà Thế phát hiện nên cấm hẳn Mẹ mình không
được vào thăm vua Cha nhưng đến giờ sắp chết, Vua Bình Sa Vương vẫn thương
con, nghĩ rằng con mình đã ăn năn hối hận nên cho thợ đến cạo tóc, đón mình về
cung. Ngược lại người thợ cạo đến gọt gót chân Vua, xát muối hơ dưới than nóng
để kết liễu cuộc đời Vua Bình Sa Vương.
Cùng lúc ấy, tin vợ A Xà Thế hạ sinh một hoàng nam, nỗi vui mừng của ông
không sao tả siết. A Xà Thế lần đầu tiên cảm nhận được tình thương của một người
Cha chớm nở trong lòng, như dòng máu trong người ông chảy rần rật qua từng khớp
xương, tế bào. Ông vội chạy đi tìm gặp Mẹ và thưa rằng: “Thưa Mẹ khi con còn
nhỏ, Phụ hoàng có thương con không?” Bà liền kể rằng: Lúc Mẹ mang thai con,
bỗng thèm nút vài giọt máu trong bàn tay của Cha con, mẹ không dám nói nên mỗi
ngày một xanh xao tiều tụy, sau cũng đành thú thật. Khi nghe như vậy, Cha con vui
vẻ lấy dao rạch tay cho Mẹ nút máu. Các vị tiên tri bảo rằng con là kẻ sẽ hại Cha
sau này. Có lần Mẹ đã định giết con ngay trong bụng nhưng Cha con biết nên không
41
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
cho. Rồi một hôm con có cái mụt nhọt trên đầu ngón tay, đau nhức khóc suốt đêm
ngày. Cha con đang lâm triều nhưng nghe tiếng khóc của con không chịu nổi, chạy
vào bồng con trong lòng. Cha đã không ngần ngại, ngậm ngón tay con trong miệng,
nhẹ mút cho con đỡ đau. Lâu ngày mụt nhọt ấy bị bể, sợ lấy ngón tay ra con sẽ đau
nên Cha con nuốt cả máu lẫn mủ vào bụng. Khi nghe qua câu chuyện, ông sực nhớ
đến Cha và hô to: Các người đâu? Hãy lập tức thả người Cha yêu quý của ta ra.
Nhưng không kịp nữa, vua Bình Sa Vương đã hóa ra người thiên cổ. A Xà Thế rất
xúc động, đau đớn cùng tột vì ông là kẻ phạm trọng tội ngũ nghịch giết Cha.
Cha là bóng cả ngã che con
Là cả tình thương chẳng xói mòn
Là cả cuộc đời vô biên quá
Mang nặng tình Cha như nước non
Tình thương của Cha luôn luôn giấu kín trong lòng và đôi khi tình thương ấy
còn tiềm ẩn trong lời nói, cử chỉ hành động mỗi khi dạy con. Tình thương của Cha
như cây đại thụ đứng giữa nắng mưa che chở, định hướng cho con bước vào cuộc
đời. Huyền Lan đã cảm nhận về tình Cha ấy.
Cha cho con một cuộc đời
Mối tình sâu kín trong lời dạy khuyên
Lòng Cha nghiêm nghị thiêng liêng
Cho con lẽ sống giữa miền trần gian
Tình cảm của người Cha ít biểu lộ ra bên ngoài bởi bản chất cứng rắn,
nghiêm nghị, luôn sống bằng lý trí và trầm lặng, không phải như người Mẹ. Nếu vì
hoàn cảnh nào đó, hay vì cuộc sống gia đình mà người con phải đi xa để tìm
phương kế sinh nhai và mỗi lần đi xa về, người Mẹ vì thương và nhớ con lâu ngày,
sẽ vội vã ôm chầm lấy con mà khóc nức nở. Nhưng người Cha không bộc lộ những
tình cảm như vậy, chỉ đứng nhìn con thôi, không phải là không thương con, có
người Cha nào mà không thương nhớ con mình, nhưng chỉ thương con trong âm
thầm lặng lẽ, chỉ cảm nhận bằng ánh mắt, tâm hồn.
42
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Chính vì thế, Mặc Phương Tử đã viết:
Ngước nhìn lên ngọn non xanh
Mắt Cha còn đọng long lanh sao trời
Ngàn xưa ngọc vẫn không lời
Mà sao vẫn đẹp sáng mười phương mây
Nghĩa là viên ngọc thì không nói được lời nào nhưng nó vẫn tỏa sáng khắp
nơi. Viên ngọc ở đây chỉ cho Cha chúng ta. Như đã nói, bản chất người Cha trầm
lặng giống như nước nơi nào không sóng, nơi đó chính là chỗ sâu nhất.
Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng tuyệt hảo nhất là trái tim người Mẹ. Một
trong số những kỳ quan tuyệt hảo nhất của vũ trụ, bên cạnh trái tim người Mẹ còn
có cả trái tim người Cha.
Con có Cha như nhà có nóc
Con không Cha như nòng nọc đứt đuôi
Vì vậy, nếu mất Cha thì người con trong những ngày tháng ấy thật bất hạnh,
đau thương, bơ vơ, lạc lõng. Khi đó mới cảm nghe trong tiềm thức hiện về những ân
tình Cha.
Đối với nghĩa Mẹ: Khi nói đến tình Mẹ thì quả thật trên đời này không có
thứ tình nào đậm đà thiêng liêng bằng thứ tình ấy, nó đã có trong ta từ thuở tượng
hình, đến với ta qua hơi ấm thịt da, qua bàn tay trìu mến, qua dòng sữa bổ dưỡng,
qua giọng hát ngọt ngào, qua lời ru êm dịu của Mẹ.
Mẹ là biển cả trong đại dương vô cùng tận, con nhờ biển mà tình thương mở
rộng đến muôn loài vạn vật. Dù con ở tận phương trời nào vẫn luôn luôn nhớ về quê
mẹ. Mẹ là quê hương, mẹ là tình thương rộng lớn, người nào không có quê hương
cũng như người đó không có mẹ, trở nên lạc lõng bơ vơ giữa chợ đời muôn ngả.
Trong những tháng ngày thơ ấu hồn nhiên, mẹ sưởi ấm cho ta bằng tình thương vô
bờ bến, nâng đỡ và tập cho ta những bước đi chập chững đầu tiên, công ơn ấy làm
sao con quên được, luôn mãi in sâu trong tâm trí của người con hiếu hạnh.
Bởi vậy, trong nhân gian đã dùng rất nhiều biểu tượng tuy bình dị khiêm
nhường nhưng rất cao quý để nói về Mẹ, lời hát ru của Mẹ lúc con còn thơ bé nồng
43
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
nàn, ngon ngọt như chuối ba hương, như xôi nếp mật, như đường mía lau. Trong Từ
Quang Thi Tập, Chí Kiên đã viết:
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật như đường mía lau
Thơm tho thấm thía ngọt ngào
Thiết tha sâu đậm không bao giờ nhòa
Mẹ là suối nguồn yêu thương, là sông sâu biển rộng vô bờ bến, là trời cao
thẳm. Mẹ là tình yêu muôn thuở của cuộc đời con. Mẹ chính là hương vị ngọt ngào,
là dòng suối bất tận của thế nhân, là khung trời đẹp nhất của tuổi thơ, người Mẹ
chín tháng cưu mang nặng nhọc, bên ướt Mẹ nằm, bên ráo con lăn, lúc con ốm đau
Mẹ hiền thức trắng năm canh, không chợp mắt để theo dõi từng hơi thở, canh từng
giấc ngủ cho con, khi con khỏe mạnh Mẹ vui mừng khôn tả, con buồn thì Mẹ cũng
buồn theo, lòng mẹ như cung đàn muôn điệu, lúc nào cũng rung lên theo nhịp điệu
của con.
Từ khi con cất tiếng khóc chào đời được Mẹ nâng niu bồng ẵm thao thức
suốt đêm, chăm sóc từng miếng ăn giấc ngủ, Mẹ đã nuôi dưỡng ấp ủ con bằng cả
tinh thần và thể chất của mình, với sự chia sẻ trách nhiệm ân cần dạy bảo của người
Cha, Mẹ đã truyền cho con những dòng sữa ngọt ngào với trọn tình yêu thương đã
mớm cơm cho con, với tâm tư trìu mến, cho con từng cử chỉ âu yếm, từng ánh mắt
khích lệ, cho con những lời ru tình người, thấm vào tâm hồn trong trắng từ thuở con
còn nằm trong nôi.
Trong kinh Mục Liên Sám Pháp, dịch giả Phúc Tuệ có ghi: “Công ơn của
Mẹ làm sao kể hết từ khi mang thai, sinh con ra bú mớm ẵm bồng, đêm ngày lo lắng
săn sóc từng miếng ăn, nuôi nấng chúng ta từ lúc thơ bé đến khi thành người khôn
ngoan, chịu đựng bao nhiêu cực nhọc” [54, tr. 129].
Tình Mẹ thương con, không biết lấy gì để so sánh cho cân xứng. Từ khi con
nhập thai trải qua chín tháng cưu mang, Mẹ đi đứng nằm ngồi cẩn thận, chịu trăm
điều khổ sở, đến giờ sắp sinh con mà khó khăn Mẹ chỉ cầu mong cho đứa con của
44
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Mẹ sắp sinh được hoàn hảo, đầy đủ lục căn. Nếu sinh con được bình an Mẹ vui
sướng như người nghèo gặp được ngọc báu.
Người Mẹ tảo tần sớm hôm với bao sương gió, lam lũ chợ đời, đêm ngày vất
vả, buôn tảo bán tần mong kiếm đồng tiền để nuôi con, cho dù chúng ta dùng văn tự
và ngôn ngữ để diễn tả tình mẹ thế nào đi chăng nữa cũng không thể đủ được, thế
nên thi sĩ Vũ Hoàng Chương cảm nhận được điều đó.
Ngôn ngữ trần gian là túi rách
Đựng sao đầy hai tiếng Mẹ ơi!
Văn tự là chiếc xe mòn cọc cạch
Đường về quê Mẹ ngàn trùng xa xôi
Thật vậy, ngôn ngữ không diễn tả và gói ghém được hai tiếng “Mẹ ơi”, mỗi
khi chúng ta đau khổ lại trở về nương tựa Mẹ. Mẹ là người an ủi và làm giảm bớt
nỗi đau buồn ấy. Còn văn tự chỉ giống như chiếc xe mòn quá cũ mà đường về quê
Mẹ xa xôi ngàn trùng, khó có thể đếm được.
Thật là hạnh phúc biết bao khi chúng ta đang sống bên Mẹ. May mắn thay
cho chúng ta khi còn Mẹ.
Sung sướng nhỉ, những người còn Mẹ
Còn Mẹ con còn cả đất trời
2.2.1. Chữ Hiếu trong Kinh điển Phật giáo
Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến hiếu hạnh, lợi ích của hiếu hạnh và làm thế
nào để báo đáp hiếu hạnh có hiệu quả cao và công đức lớn. Các kinh điển Phật giáo
dạy về hiếu hạnh như sau:
Kinh Vu-lan-bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên, cứu thoát mẹ
ra khỏi cảnh giới u minh, nhờ vào tập thể của Tăng đoàn và các vị A-la-hán.
Kinh Báo Ân Cha mẹ nói rõ công lao sinh thành, nuôi dưỡng khó khăn của
Cha mẹ, và theo đó dạy cách báo đáp công ơn trời biển đó.
Còn nhiều kinh sách khác đề cập đến chữ hiếu ở góc độ này hay góc độ khác.
Có thể nói, chữ hiếu bàn bạc khắp kinh điển Phật giáo. Khi đọc kinh Phật giáo là để
trở thành người con hiếu thảo theo tinh thần lời Phật dạy, người con hiếu là người
45
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
có thể thành tựu nhiều hạnh lành khác, vì hiếu là nền tảng của muôn hạnh lành, là
cơ sở của nhân thừa, là nhịp cầu giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
Biết ơn và đền ơn cha mẹ là hạnh hiếu đáng khen: Trước nhất kinh điển Phật
giáo khẳng định rằng người biết ơn và đền ơn Cha mẹ là một bậc chân nhân, là
người sống gương mẫu ở đời. Một người con được gọi là con hiếu thảo phải là một
con người như vậy: "Ðối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được
biết đến, đó là biết ơn và đền ơn đúng pháp” [11, tr. 157].
Làm con mà không biết ơn Cha mẹ hoặc biết ơn mà không lo đền đáp công
ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ là người con bất hiếu. Người như vậy sẽ bị xã
hội lên án, đời sống đạo đức sẽ bị suy giảm, và đời sống về sau sẽ bị đọa: "Ai thành
tựu thân làm ác với Cha mẹ, lời nói ác đối với Cha mẹ, ý nghĩ ác đối với Cha mẹ;
không biết ơn, không trả ơn, sẽ tương xứng rơi vào địa ngục và hiện đời sẽ bị đau
khổ" [20, tr. 637].
Trong kinh Tương Ưng - Đức Phật cũng nói đến vị trí của người con hiếu
thảo là vô song và hơn hết các loài động vật khác. Sự vô song này được Đức Phật
sánh ví với sự vô song của Phật so với các loài hai chân:
“Giữa các loài hai chân
Chánh giác là tối thắng
Trong các loài con cái
Hiếu thuận là tối thắng” [22, tr.8]
Cha mẹ phải vất vả nuôi nấng, dưỡng dục con, cho ăn học, lập gia thất, chạy
thầy lo thuốc khi con đau ốm, chẳng quản tấm thân lao khổ. Những đoạn kinh dưới
đây cho thấy công lao dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái: Cha mẹ dạy điều lễ
nghĩa, cho con ăn học, giới thiệu nghề nghiệp, đưa đón đi về, cần lao chăm chút,
chẳng hề kể công: Trái nắng trở trời, tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, chạy
thầy lo thuốc, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò võ, bệnh con
có khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con khôn lớn, con thảo con hiền.
46
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Mục Liên Sám Pháp cũng nêu ra tiêu chí giáo dục chính pháp cho con như sau:
“Khi con lớn khôn, hiểu biết việc đời, hướng đạo cho con, hoặc cho xuất gia, tu học
đạo pháp, trở thành giải thoát. Ân đức như thế thật khó đáp đền” [41, tr. 127].
Trong rất nhiều kinh Đức Phật luôn luôn giáo dục mọi người không nên chỉ
vì lý do phụng dưỡng cha mẹ mà tác tạo các nghiệp phi pháp, bất chính, tổn hại
mình và người. Ðức Phật cũng thường nhắc đi nhắc lại rằng sự hiếu kính đúng
nghĩa có giá trị, có an lạc phải là sự hiếu kính trên cơ sở của các hành vi và nghề
nghiệp chân chính, phù hợp với luật pháp xã hội.
Như vậy, hiếu thảo trong đạo Phật không chỉ đơn thuần đáp ứng cho Cha mẹ
đời sống vật chất, tiền bạc, sự cung phụng và vâng lời. Hiếu trong Phật giáo được
đặt vào trong mục tiêu hướng đến đời sống đạo đức và trí tuệ của Cha mẹ và bản
thân. Hiếu như vậy thật sự là một thiện pháp, một sự giới thiệu, một sự tương
duyên, một thiện tri thức để Cha mẹ và con cái cùng bước đi trên con đường chân
thiện mỹ, an lạc và hạnh phúc trong chính pháp của Đức Phật. Như vậy, hiếu phải
được thực hiện trong ánh sáng chân lý của Ngài trên nền tảng thánh đạo, trên cơ sở
của đạo đức, thiền định và trí tuệ. Ðây là cách trang bị cho Cha mẹ đầy đủ Giới -
Định - Tuệ để cùng hướng đến giải thoát, giác ngộ.
Nói tóm lại, hiếu trong Kinh điển Phật giáo phải thể hiện trọn vẹn cả hai
phương diện hiếu dưỡng vật chất và hiếu dưỡng tinh thần. Ðể hiếu dưỡng Cha mẹ
về vật chất, người con phải cúc cung tận tụy nuôi nấng, chăm sóc, tôn kính Cha mẹ
đúng pháp, phục vụ Cha mẹ bằng mồ hôi và tài sản có được từ nếp sống lành mạnh,
chân chính, làm cho Cha mẹ sống an vui, thoải mái với những tình cảm tốt đẹp nhất.
Ðể hiếu dưỡng Cha mẹ về phương diện tinh thần, người con trước hết phải tự trau
giồi tốt bản thân mình, làm tất cả những gì tốt đẹp nhất, xa lánh những điều xấu xa,
tội lỗi, đem tiếng thơm về cho gia đình, để cho Cha mẹ có thể tự hào và hãnh diện
với mọi người. Kế đến nếu Cha mẹ chưa biết Tam bảo thì phải khéo léo hướng dẫn
cha mẹ trở về quy y và sống dưới ánh sáng của chính pháp, trau dồi chính kiến, đức
hạnh chân chính, làm hành trang cho một đời sống an lạc và hạnh phúc hiện tại và
về sau. Nội dung hiếu dưỡng Cha mẹ về đời sống tinh thần chính là mục tiêu giáo
47
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
dục của Đức Phật. Ðây chính là điểm vượt trội của Phật giáo so với ca dao Việt
Nam cũng như chữ hiếu trong các tôn giáo và học thuyết khác từ trước đến giờ.
Chữ hiếu trong Phật giáo xây dựng chính yếu trên nền tảng lợi ích thiết thực
hiện tại và lợi ích an lạc giải thoát. Chữ hiếu như vậy thật chất đã trở thành một phương
tiện thể hiện hành "lợi hành và đồng sự" cùng Cha mẹ kết làm thiện tri thức, làm pháp
lữ, trên con đường thực hành chính pháp của Đức Phật, tại đây và bây giờ. Hiếu như
vậy đã trở thành một phương tiện của đạo đức và giải thoát cho mình và người.
2.2.2. Lễ Vu lan của Phật giáo
Nói đến mùa Vu Lan chính là nói đến truyền thống báo hiếu, phụng thờ Cha
Mẹ, ông bà tổ tiên của con cái. Lễ hội Vu Lan báo hiếu sẽ đem lại một nếp sống
hạnh phúc và an lạc cho mình, cho mọi người. Đây cũng chính là lễ hội hết sức có ý
nghĩa, đầy giá trị văn hóa tình người.
Có thể nói lễ hội Vu Lan không chỉ dành riêng cho người nào theo Phật giáo
mà còn là một lễ hội chung cho tất cả một dân tộc hướng về ngày báo ân. Lễ Vu
Lan là dịp tốt để người Phật tử phát tâm cúng dàng Tam Bảo, làm việc nhận từ,
phóng sinh loài vật, dạy chúng ta ý thức độ lượng bao dung, giúp đỡ người khác
hướng dẫn đến con đường đạo đức trong tinh thần vô vị lợi.
Ngoài ra, lễ Vu Lan còn là dịp may cho những ai biết phát tâm lành, làm các
việc công đức để hồi hướng cho tất cả vạn loại sinh linh đang chịu đau khổ dưới địa
ngục. Trong đó có những thân nhân như ông bà, Cha Mẹ, vợ chồng, con cái chúng
ta từ vô lượng kiếp đều được lãnh nhận phần công đức. Lễ hội Vu Lan ngày nay đã
trở thành lễ hội báo hiếu của Phật giáo, đặc biệt đã trở thành lễ hội văn hóa dân tộc,
nhân loại. Lễ hội Vu Lan có nhiều giá trị đạo đức cần được phát huy để cho sự sống
của con người hôm nay và mãi mãi ngàn sau thật sự lợi ích an lạc trong chính pháp.
Kinh Vu Lan được xem như một bức thông điệp hiếu kính Cha Mẹ thì mùa
Vu Lan Bồn là mùa tượng trưng của đạo hiếu trong nhà Phật. Chính vì vậy, mùa Vu
Lan đã trở thành mùa báo ân, báo hiếu đối với người con Phật. Lễ hội Vu Lan là lễ
hội của những người con hiếu thảo đối với công ơn trời biển của Cha Mẹ.
48
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Hòa thượng Thích Thiện Siêu đã viết: “Lễ Vu Lan là mùa báo hiếu của hàng
Phật tử theo truyền thống Phật giáo. Chủ tâm của sự báo hiếu trong mùa Vu Lan
này là cầu nguyện cho Cha Mẹ, tổ tiên, ân nhân của chúng ta với lời nguyện cầu
cho cả Cha Mẹ hiện tại,Cha Mẹ nhiều đời và cửu huyền thất tổ” [57, tr. 16].
Lễ hội Vu Lan Bồn viết tắt là lễ Vu Lan. Vì vậy, Vu Lan viết đầy đủ là Vu
Lan Bồn mà người Trung Quốc dịch là Ullambana, “Vu Lan Bồn, phiên âm theo
tiếng Phạn là: “Giải đảo huyền”, nghĩa đen là cởi trói người bị treo ngược; nghĩa
bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề như đang bị treo ngược” [35, tr. 237].
Mùa vu Lan nhắc nhở người con hiếu hạnh: Trong cuộc sống hiện tại, có
nhiều trường hợp con cái không làm tròn hiếu đạo với Cha Mẹ, đến khi Cha Mẹ
chết rồi, làm đám tang thật lớn, giết hại bò, heo để cúng bái, mời xóm giềng ăn nhậu
say sưa. Thật đúng với câu:
Lúc sống thì chẳng cho ăn
Đến khi thác xuống làm văn tế ruồi
Ngày chôn cất Cha Mẹ thì khóc lóc thảm thiết, kể lể nhiều điều vô ích, rồi
thêm bài điếu văn lâm ly bi đát tán thán công ơn trời biển của Cha Mẹ, để cho mọi
người thấy mình là người con có hiếu.
Như vậy, theo quan điểm của Phật giáo, báo hiếu Cha Mẹ như thế nào cho
đúng nghĩa? Trước hết, lòng hiếu thảo phải được thể hiện bằng lòng thương kính,
biết ơn đến Cha Mẹ. Lòng thương kính và biết ơn này phải được thể hiện qua sự
phụng dưỡng chăm sóc khi Cha Mẹ còn sống và sau khi Cha Mẹ qua đời, lòng hiếu
thảo không bao giờ được thể hiện bằng hình thức cúng bái rườm rà. Người con hiếu
thảo không khóc than, kể lể thảm thiết, phải giữ tâm thanh tịnh, chí thành niệm
Phật, nguyện cầu cho Cha Mẹ được vãng sinh cực lạc.
Không phải đợi mùa Vu Lan về chúng ta mới báo hiếu công ơn Cha Mẹ mà
ngay trong cuộc sống hiện tại, với ý thức trách nhiệm, người con phải phụng dưỡng
thật chu đáo, làm Cha Mẹ vui lòng và hướng dẫn Cha Mẹ quay về con đường đạo đức
thiện lành. Đó là một nếp sống tương đối đầy đủ, có thể đền đáp được công ơn Cha
Mẹ phần nào trong muôn một, để khi Cha Mẹ qua đời không còn tiếc nuối. Tất cả
49
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
chúng ta đang hiện diện trong cuộc đời, phải dành những giây phút để tưởng niệm về
ân đức Cha Mẹ. Cho dù Cha Mẹ chúng ta còn hay mất phải biết nhớ ơn và đền ơn.
Ngày xưa, chúng ta biết bao lần làm khổ Mẹ Cha. Giờ đây, chúng ta hãy lạy
Mẹ lạy Cha để tỏ lòng hối cải những sai lầm ấy. Chúng ta chắp hai tay lên trán, quỳ
dưới chân Mẹ và Cha để tỏ lòng tôn kính, cầu xin Cha Mẹ tha thứ những lỗi lầm
vụng dại của con.
Xin Cha Mẹ nhận lạy lòng con hiếu
Đã bao lần làm Cha khổ ngày xưa
Đã bao lần làm Mẹ khóc như mưa
Bao nhiêu lạy cũng chẳng vừa ơn ấy
Người con hiếu thảo khi đã mất Cha Mẹ thì tình cảm thắm thiết đậm đà luôn
mãi vấn vương trong tâm trí. Sơn Cư đã thể hiện một tấm lòng hiếu đạo, đối với ân
đức sâu dày của hai đấng sinh thành.
Đây bát cơm đầy nặng ước mong
Mẹ ơi! đây ngọc với đây lòng
Đây tình còn đọng trong tha thiết
Ơn nghĩa sinh thành chưa trả xong
Ngày xưa, Thầy Tử Lộ đổi gạo mướn để nuôi Mẹ, đến lúc thi đỗ làm quan
thì Mẹ không còn nữa nên than rằng: Thà ta đổi gạo mướn để nuôi Mẹ còn hơn nay
ta được vinh hiển mà không còn Mẹ để phụng dưỡng.
Hiếu còn được xem như bổn phận không thể thiếu trong cuộc sống hàng
ngày. Là người con Phật phải luôn luôn nhớ đến công ơn sâu dày của cha mẹ, bằng
sự hiếu dưỡng vật chất và tinh thần. Vì “nước biển mênh mông không đong đầy tình
Mẹ” và “mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha”. Chúng ta phải có ý thức
trách nhiệm làm tròn bổn phận của người con hiếu hạnh đối với công ơn Cha Mẹ
trong đời sống hiện tại và tương lai.
Theo quan điểm Phật giáo, nếu người nào hiếu với Cha Mẹ, anh em huyết
thống thì người đó chắc chắn có tình yêu thương trong nhiều mối quan hệ xã hội,
đồng bào và quê hương đất nước. Chúng ta phải nhớ ơn đến nguồn cội tổ tiên, ông
50
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
bà, Cha Mẹ, nhất là nghĩa cử hiếu đạo được thể hiện qua ngày giỗ, cúng và lễ hội
Vu Lan: Làm việc thiện lành đạo đức, tự thân nỗ lực tinh tấn, bố thí, cúng dàng,
phát tâm ăn chay, phóng sinh v.v.
Nguyện đem công đức hồi hướng cho cửu huyền thất tổ, ông bà, Cha Mẹ quá
vãng cùng thập loại chúng sinh đồng được siêu thoát, Cha Mẹ hiện tiền được nhiều
phước lành, cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Đó là ý nghĩa của
việc hiếu hạnh, là tấm gương để con cháu noi theo.
Như Hòa Thượng Thích Trí Quảng đã viết: “Phật giáo đã quan sát sự hiện
hữu của con người và thấy được mối tương quan, tương duyên mật thiết của con
người với truyền thống gia đình, với cộng đồng xã hội và thế giới siêu nhiên. Với sự
thấy biết theo lý duyên sinh như thế, trong mùa Vu Lan báo hiếu, nhớ nghĩ đến công
ơn của tổ tiên, ông bà, Cha Mẹ đã sinh ra mình, nuôi dưỡng, dạy dỗ mình. Chúng ta
cầu nguyện cho tất cả người thân không còn hiện hữu được vãng sinh thế giới Phật.
Ngoài ra chúng ta cũng cầu nguyện cho cộng đồng xã hội được tốt đẹp, vì đất nước
có thịnh vượng, thanh bình thì chúng ta mới có thể sống an vui” [48, tr. 7].
Mùa Vu Lan báo ân báo hiếu sẽ nhắc nhở những người con Phật nói
riêng và tất cả mọi người nói chung. Hãy hiếu thảo phụng sự Cha Mẹ để làm tròn
hiếu hạnh và tâm hạnh. Vì: Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh Hiếu là hạnh Phật.
Vậy chúng ta hãy kịp thời hiếu dưỡng Cha Mẹ lúc còn tại thế, để khỏi hối
hận nối tiếc khi Cha Mẹ qua đời như lời than thở của Thầy Tử Lộ. Ngoài việc
phụng dưỡng Cha Mẹ còn phải khuyên Cha Mẹ bỏ ác làm lành và an trú đời sống
Cha Mẹ vào chính pháp. Có như vậy, mới gọi là báo đáp thâm ân của Cha Mẹ được
vẹn toàn cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần trong hiện tại và tương lai, đúng đắn nhất
theo quan điểm Phật giáo.
Tóm lại: Đức Phật đã dạy mô tả công ơn Cha Mẹ lớn lao như trời bể không
có gì sánh bằng được. Công ơn Cha Mẹ nếu trong một đời này thôi thì cũng không
bao giờ kể hết huống chi là công ơn từ vô lượng kiếp luân hồi trong sinh tử cho đến
ngày nay. Vì vậy việc hiếu nghĩa đối với Cha Mẹ mình là việc làm cần thiết nhất,
quan trọng nhất của con đường tự tu thân là việc làm đầu tiên và nấc thang đầu tiên
51
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
của con người học đạo muốn cầu giải thoát. Người đắc đạo được Thánh quả cũng là
người đã thực hiện tròn đầy “Hiếu đạo” với Cha Mẹ mình, bởi vì “Hiếu kính phụ
mẫu, hiếu danh vi giới…” Bởi vậy Đức Phật khuyên tất cả các hàng đệ tử, cũng như
Ngài: “Hiếu đạo là việc làm không thể bỏ qua”. Vậy mỗi chúng ta muốn báo hiếu
Cha Mẹ không gì hơn là học cách báo hiếu Cha Mẹ theo tinh thần Phật giáo.
2.3. Các biểu hiện cụ thể về ân Cha mẹ và giá trị đạo đức Phật giáo
trong xã hội ngày nay
2.3.1. Ân Cha mẹ trong Phật giáo
Như chúng ta đã biết, công ơn của Cha mẹ đối với con cái như trời cao, biển
cả. Nếu đem sánh với tất cả ơn trong đời, không ơn nào bằng. Trọn kiếp, dù nát thân
này cũng chưa đền đáp được. Phật dạy: "Thiên Kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên"
Nghĩa là: "Ngàn quyển Kinh vạn quyển sách đều lấy chữ hiếu làm đầu" và “Hiếu
tâm tức Phật tâm, hiếu hạnh tức Phật hạnh”. Như vậy, bổn phận của người con đối
với Cha mẹ như thế nào? Kinh Trường Bộ, tập II có ghi nhận như sau: "Được nuôi
dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại Cha mẹ, tôi sẽ làm bổn phận đối với Cha mẹ, tôi sẽ giữ
gìn gia đình và truyền thống, tôi bảo vệ tài sản thừa tự, tôi sẽ làm tang lễ khi Cha
mẹ qua đời" [17, tr. 542].
Thứ nhất: Những bổn phận báo hiếu của người con đối với Cha Mẹ
Bổn phận làm con phải lo cho vẹn tròn chữ hiếu, trong Kinh Đỉnh lễ sáu
phương (Trường Bộ I) gọi mối liên hệ giữa Cha Mẹ và con cái là mối liên hệ thiêng
liêng đáng được tôn kính, đỉnh lễ. Người con có bổn phận đáp đền bằng những việc
làm thiết thực như:
Vâng lời Cha Mẹ, giúp đỡ Cha Mẹ khi cần
Chăm chỉ học hành, siêng năng làm việc
Giữ gìn gia phong
Phụng dưỡng Cha Mẹ lúc tuổi già
Lo đám tang đúng phong tục khi Cha Mẹ mất
Khích lệ, giới thiệu đạo giải thoát chính kiến đến với Cha Mẹ…
52
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đây là công việc quan trọng hơn cả, đó là giúp Cha Mẹ hiểu đạo, có chính
kiến, chính tín với Tam Bảo. Đức Phật dạy: Ta thấy người thế gian chưa được gọi là
Hiếu. Chỉ có người nào làm được như vậy mới Hiếu. Đó là làm cho Cha Mẹ bỏ ác
làm thiện, thụ trì ngũ giới, quy y Tam Bảo, hằng biết luật pháp của quốc gia, hằng
đêm phụng thờ thì người ấy mới báo được công ơn vô lượng sâu nặng của Cha Mẹ
nuôi dưỡng ta nên người, thành người trung hiếu lưỡng toàn.
Trong Tăng Chi Bộ kinh Đức Phật đề cập đến bốn trách nhiệm của người
con phải làm để hướng dẫn Cha Mẹ sống theo chính pháp đó là: “Nếu Cha Mẹ
không có niềm tin, thì khuyến khích Cha Mẹ phát tâm tin tưởng Tam Bảo; Nếu
Cha Mẹ làm ác, khuyên Cha Mẹ về đường thiện; Nếu Cha Mẹ xan tham, khuyên
Cha Mẹ phát tâm bố thí; Nếu Cha Mẹ theo tà kiến, khuyên Cha Mẹ theo chính
kiến” [18, tr.59].
Khi Cha Mẹ đã kính tin Tam Bảo và sống đúng chính pháp, thì những buồn
phiền sẽ lắng yên, tâm hồn được nhẹ nhàng thảnh thơi, vì Phật Pháp có khả năng
rửa sạch trần lao nên Cha Mẹ sẽ nhận ra những việc cần thiết cho quãng đời còn lại.
Có như vậy chúng ta mới mong trả được công ơn biển trời của Cha Mẹ.
Như vậy mỗi người con chúng ta dù xuất gia hay tại gia tập phúc đức và hồi
hướng phúc đức cho Cha Mẹ việc làm Hiếu Hạnh chính đáng và cao cả hơn hết.
Muốn cho Cha Mẹ mình theo chính kiến thì sự nỗ lực tu tập tự thân là việc làm
không thể thiếu của người đệ tử Phật, vì phải làm như vậy thì Cha Mẹ mới có được
đức tin Tam Bảo, tin nhân quả, hiểu biết về tội phúc. Nếu vì hiếu đạo mà làm những
điều phi pháp do Cha Mẹ sai bảo thì đó là việc làm trái với chính đạo và Đức Phật
hoàn toàn không chấp nhận.
Chính vì thế mà đạo Phật rất nhân bản đã để con người nằm đúng vị trí của
mình. Chúng ta không thể có kết quả tốt trong khi hiếu thuận với Cha Mẹ nhưng
mang tà kiến đối với việc vâng lời sai bảo, hoặc làm việc gì dù xuất phát từ tâm
hiếu thuận mà làm các việc ác thì quả báo cũng không tránh khỏi, chúng ta không
thể nhân danh chữ Hiếu để xóa sạch mọi hành vi bất thiện. Cho nên tâm hiếu thuận
53
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
ấy yêu cầu phải có trí tuệ, nếu không có trí tuệ thì những hành động đó sẽ không
đem lại hạnh phúc cho Cha Mẹ cũng như cho mình trong hiện tại và vị lai.
Như vậy bổn phận báo hiếu của người con quan trọng nhất giới thiệu con
đường giải thoát đến với Cha Mẹ, nếu không làm tròn bổn phận này thì bị Đức Phật
xem là bất hiếu. Theo Phật giáo bất hiếu là việc làm cực ác, và ngược lại có hiếu tức
là vua trong tất cả các việc thiện.
Thứ hai: Phúc báo của người con có hiếu
Kinh Hạnh Phúc - Nam tông ghi: “Phụng dưỡng cha và mẹ là vận may tối
thượng” Chẳng những xem hiếu hạnh là quan trọng Đức Phật còn dạy Hiếu Hạnh là
đức cao cả nhất của con người. Trong loài người, tối thắng nhất là người có hiếu. Và
những gia đình có con cái hiếu thảo gia đình ấy được xem ngang bằng với Phạm Thiên.
Không những chỉ hiếu thảo với Cha Mẹ trong gia đình, mà còn phải hiếu
thuận với tất cả những người xung quanh mình nữa. Báo hiếu không chỉ là một
trách nhiệm mà còn chính là nghĩa sống tích cực cho một cuộc đời lành mạnh,
Hiếu hạnh là việc làm hiệu quả nhất, thiết thực trong lộ trình tìm cầu hạnh phúc
của loài người.
Kinh Đại tộc - Bắc truyền ghi: “Gặp thời không có Phật khéo thờ Cha Mẹ
chính là Phật”.
Như thế phúc báu của việc phụng thờ Cha Mẹ được xem như tương đương
với việc cúng dàng chư Phật, có kết quả vô cùng lớn lao, đó là người con hiếu, xem
việc báo hiếu là việc may mắn hơn hết, không có một may mắn nào có thể lớn hơn
nữa. Người nào muốn đạt đến cứu kính Phật đạo, người ấy phải tuyệt đối hiếu kính
với Cha Mẹ.
Tóm lại: Việc báo hiếu không chỉ là hành vi tri ân và báo ân Cha Mẹ mà nó
còn là mục tiêu nhằm đến ước nguyện lớn lao của tự thân cho mỗi chúng ta về
phương diện thăng hoa cho cuộc đời tu tập của riêng mình. Từ đó không chỉ đem lại
hạnh phúc cho Cha Mẹ cho riêng mình mà còn đem lại lợi ích cho bao nhiêu người
xung quanh và rộng ra cho cả nhân loại.
Thứ ba: Quả lành đối với người con có hiếu
54
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Nếu người con hiếu hạnh biết hiếu kính lễ Tam Bảo, tán thán chư Phật, tôn trọng
Cha mẹ thì đồng nghĩa với việc làm thiện. Đoạn Kinh trong Mục Liên Sám Pháp có dạy:
"Lễkính chư Phật, khen ngợi Như Lai, học theo pháp Phật, tùy thuận chúng sinh, khuyên
người hiếu hạnh, phát tâm báo ân. Đó chính là thiện” [54, tr. 65-66].
Trong Kinh Tương Ưng có đề cập một vị Thiên chủ Sakka khi còn làm
người, vị này chấp trì và thực hành bảy giới cấm túc nên được làm chủ và bậc chân
nhân của ba mươi ba cảnh trời "thế nào là bảy? Cho đến trọn đời tôi không hiếu
dưỡng Cha mẹ, kính trọng bậc gia trưởng, nói lời nhu hòa, không nói lời hai lưỡi,
với tâm ly cấu uế và xan tham..." [22, tr. 510].
Những người con nào tuyệt đối thể hiện sự hiếu kính đối với Cha mẹ sẽ chiêu
cảm đến đất trời. Khi gặp các nạn dữ được Long Thần hộ pháp gia hộ thoát khỏi các
nạn khổ. Trong Kinh Hạnh Phúc đã ghi: "Người con trí hiếu dù gặp đại nạn như tai
trời ách nước, hồng thủy, địa chấn sẽ được thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì
được trọn hưởng gia tài, không bị cảnh chướng duyên... Nếu nghèo thì đời sống trong
sạch, thanh nhàn, trời người yêu thương, danh thơm bay khắp, không nợ nần khổ sở,
thiếu bệnh, thiếu tật... Trong hiện tại hằng được các bậc hiền trí ngợi khen, kết giao
thần thiện, sau khi chết được sinh thiên” [19, tr. 21].
“Nếu có trai, gái theo Mẹ dạy
Hiếu thuận nhan sắc không dám trái.
Hết thảy tai nạn đều tiêu trừ
Chư Thiên ủng hộ thường an lạc” [20, tr. 113].
Ơn Cha mẹ sánh với tất cả ơn trong đời chúng ta có ơn nào bằng? Nếu ơn ấy
chúng ta còn quên thì các ơn khác sẽ quên đi. Ơn Cha mẹ to lớn như vậy, muốn đền
đáp cũng không thể được.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đức Thế Tôn có dạy: "Lại nếu có người vai
phải cõng Cha, vai trái cõng Mẹ đến ngàn vạn năm, lo y phục, thức ăn, giường
nằm, thuốc men trị bệnh, dù Cha mẹ tiểu tiện ở trên vai, người ấy vẫn chẳng thể
báo ân đựơc. Tỷ Khiêu nên biết, Cha mẹ ân nặng, bồng ẵm, nuôi nấng, tùy lúc gìn
giữ chẳng lỡ thời tiết như được thấy mặt trời, mặt trăng. Dùng phương tiện này,
55
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
biết ân này khó báo. Thế nên các Tỷ Khiêu cúng dàng Cha mẹ, thường nên hiếu
thuận, chẳng bỏ lỡ thời tiết” [21, tr. 349].
Với những ai có tâm kính trọng Tam Bảo, hiếu thảo với Cha mẹ sẽ được
công đức và quả lành. Phẩm Thiện Trí Thức trong Kinh A Hàm Phật dạy: “Có hai
pháp dành cho người phàm phu, được công đức lớn, thành quả báo lớn, được vị
cam lồ, đến chỗ vô vi. Đó là cúng dàng Cha và Mẹ” [21, tr. 21].
Trong vô lượng kiếp, Đức Phật đã từng cúng dàng đến các bậc Sư trưởng,
cha mẹ các loại hương hoa, các thứ dầu thơm và cung kính lễ bái nên được trang
nghiêm thân tướng. Người nào biết hiếu kính Cha mẹ, do công đức đó sẽ được sinh
trong dòng tộc cao quý. Thế Tôn đã dạy trong Kinh Tăng Nhất A Hàm như sau: "Có
hai pháp khiến người sinh trong nhà hào tộc. Thế nào là hai pháp? Cung kính Cha
mẹ, anh em, thân thuộc, đem của cải nhà mình bố thí" [21, tr. 145].
Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có dạy: "Hiếu thuận với Cha mẹ thời những
điều ác về thế gian dứt, mà những điều lành về thế gian tăng trưởng. Hiếu thuận với
Sư Tăng, Tam Bảo thời những điều ác của thế gian và xuất thế gian dứt diệt, những
điều lành về thế gian và xuất thế gian phát sinh cho đến viên mãn thành tựu. Vì ý
nghĩa ấy nên hiếu thuận là cốt tủy của Bồ Tát giới là trí đạo” [49, tr. 113].
Như Kinh Hiền Ngu đã ghi: Ta trong nhiều kiếp quá khứ, nhờ từ tâm hiếu
thuận cúng dường Cha mẹ. Do công đức đó, nên sinh lên các tầng trời làm Thiên Đế
xuống nhân gian thì làm Thánh Vương.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ có ghi: "Người muốn sinh sang Cực Lạc phải tu
ba phúc: Một là: Hiếu thuận với Cha mẹ, phụng thờ Sư trưởng, có tâm từ bi không
sát sinh, tu mười nghiệp thiện, hai là: Thụ trì Tam quy, giữ đầy đủ mọi giới, không
phạm uy nghi, ba là: Phát Bồ đề tâm, vững tin nhân quả..." [25, tr. 22].
Nhờ lòng hiếu thảo mà có thể giải nguy cho đất nước, không bị sống nô lệ.
Có câu chuyện như sau: Một hôm vua truyền lệnh: Không một gia đình nào được
phép nuôi người già trong nhà, nếu không tuân theo sẽ bị trừng phạt. Người con khi
nghĩ đến công ơn, sự hy sinh cao cả của Cha đã nuôi khôn lớn, chưa hề báo đáp nên
rất đau lòng trước thảm cảnh khó xử ấy. Người Cha bèn an ủi: Con đừng buồn, đó
56
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
là mệnh lệnh của vua, thần dân phải tuân theo mới gọi là trung. Có lẽ vua ỷ lại mình
đang trẻ tuổi, có sức mạnh, tài giỏi, xem các vị lão thần vô dụng, không giúp ích gì,
nên ban hành đạo luật đó. Vua quên rằng, một ngày nào đó vua cũng phải già vì
định luật vô thường chẳng từ một ai.
Cảnh già đâu nể bậc vua quan
Đến tuổi như cây phải cỗi tàn
Chẳng kể giàu sang cùng thế lực
Ai ai tuổi trẻ có thời gian
Hơn nữa, vua còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, làm sao an dân trị quốc
bình thiên hạ? Chắc chắn quốc gia sẽ gặp đại nạn. Con nên đưa Cha vào rừng sống
cho êm chuyện, theo đạo luật của vua ban. Người con thưa: Điều đó không thể được
và con sẽ bằng lòng với hình phạt của triều đình.
Người con liền đào một cái hầm bên dưới sàn nhà, để Cha sống dưới đó, sớm
hôm lo phụng dưỡng săn sóc. Nhờ vậy người Cha có thời gian an dưỡng và tu tập.
Lúc bấy giờ, vua nước lân cận nghe vua nước Ba La Nại đã đào thải các vị thần,
muốn đem quân chinh phục. Vua hội họp các vị cận thần, bàn việc xâm chiêm nước
Ba La Nại. Khi đó, có một vị đại thần nói rằng: Xưa nay nước Ba La Nại từng nổi
danh có các vị lão thành tài ba lỗi lạc trong vấn đề an dân trị nước. Thần nghĩ trong
việc này có nhiều nghi vấn, cần phải xem xét kỹ rồi mới hành động. Ông đề nghị,
trước tiên Thánh thượng thăm dò bằng cách gửi các chiếu thư xin giải đáp. Nếu
nước Ba La Nại giải đáp không xong, khi đó có thể đem binh đánh chiếm. Không
lâu, nước Ba La Nại tiếp nhận chiếu thư của nước lân cận, với bốn câu hỏi có nội
dung là:
"Vật sở hữu quý nhất của con người là gì?
Điều gì, nếu thực hành đúng sẽ đem lại hạnh phúc?
Hương vị nào ngọt ngào hơn tất cả?
Sống như thế nào gọi là cao thượng nhất?” [3, tr.22]
Bấy giờ, vua nước Ba La Nại triệu tập các đại thần trẻ tuổi để giải đáp nhưng
không một ai có thể trả lời. Khi đó, các vị tâu lên vua là chỉ có các "đại lão thần"
57
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
mới có thể giải đáp. Vua lại thông báo trong nước nếu thần dân nào trả lời được sẽ
trọng thưởng. Sau cùng, có chàng trai đến xin giải đáp bằng bốn câu trả lời sau đây:
"Vật sở hữu quý nhất của con người là niềm tin
Giáo Pháp nếu thực hành đúng, sẽ đem lại hạnh phúc.
Đức hạnh chân thật quả là hương vị ngọt ngào hơn tất cả.
Sống với trí tuệ xem là cao thượng nhất" [50, tr.214]
Khi chàng trai ấy trả lời xong các câu hỏi, mọi người đều vui mừng, hoan hô
phấn khởi. Vua liền triệu chàng trai ấy đến hỏi: Sao khanh biết những câu hỏi này
mà giải đáp? Chàng trai đáp ngay: Hạ thần không biết gì, đó là do Cha hạ thần chỉ
dạy. Chàng trai liền thú tội là không tuân theo sắc lệnh vua ban, lén giấu Cha dưới
hầm trong nhà để phụng dưỡng, hầu hạ. Đến lúc ấy vua mới hối hận, thu hồi đạo
luật đã ban. Các nước lân cận không còn cơ hội có ý xâm lấn nữa. Qua chuyện,
chúng ta thấy nhờ lòng hiếu thảo của người con nên cứu nguy cho đất nước, cho
dân tộc, đem lại sự thanh bình, an lạc cho tất cả mọi người.
Thứ tư: Quả dữ đối với người con không hiếu hạnh
Thực tế, chúng ta thấy hiếu đạo trên mặt lý thuyết thì dễ, nhưng về mặt thực
hành rất khó khăn. Trong Kinh Tương Ưng, Phật dạy: “Ở đời, số chúng sinh hiếu thảo
với Cha mẹ và thuận theo đạo lý thế gian thì quá ít. Ngược lại, số chúng sinh không
hiếu thảo với Cha mẹ, không thuận theo đạo lý thế gian thì quá nhiều” [22, tr. 675].
Đức Phật so sánh hình ảnh ấy trong Tương Ưng Bộ Kinh như Thế Tôn lấy ít
đất trên đầu ngón tay và bảo các Thầy Tỷ Khiêu: Các ngươi nghĩ thế nào, đất trong
tay Như Lai nhiều hay đất trong tay đại địa nhiều. Các vị Tỷ Khiêu đáp: Đất trong
tay Như Lai quá ít so với đất trong đại địa. Cũng vậy, số chúng sinh hiếu kính với
Cha mẹ quá ít, giống như đất trong tay Như Lai, còn số chúng sinh không tôn trọng
Cha mẹ như đất trong đại địa.
Phật dạy trong Tăng Nhất A Hàm: "Có hai pháp khiến người sinh trong nhà
bần tiện. Thế nào là hai pháp? Chẳng hiếu đễ với Cha mẹ, các bậc sư trưởng, cũng
không thừa sự người hơn mình” [21, tr. 309].
58
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Nếu ở đời một người không hiếu kính với Cha mẹ thì người đó không thể
hoàn thành bất cứ đạo lý nào. Người không hiếu kính với Cha mẹ, bạn bè, anh em,
xa lánh họ hàng thì người đời chán ghét, thiên thần không ủng hộ. Họ sẽ lãnh những
quả báo xấu ác trong hiện tại, khi chết đọa vào địa ngục vô gián chịu khổ đau.
Những người con bất hiếu phải lãnh chịu quả báo như chàng trai Met-Tra
không vâng lời Mẹ vượt biển đi buôn. Mẹ vì thương con cản ngăn, khẩn thiết van
xin nhưng anh ta không mảy may xúc động, nhẫn tâm xô ngã Mẹ, bước qua đầu
Mẹ, thản nhiên đi thẳng xuống thuyền không quay lại. Do tội bất hiếu đó phải thọ
lãnh quả báo trôi nổi trên biển, sau đó nghiệp dắt dẫn vào tù ngục để đội vòng lửa
sắt nóng, chịu cực hình trong muôn kiếp.
Trong mười bốn điều răn của Phật thì lời răn thứ sáu đề cập về tội lỗi lớn
nhất là tội bất hiếu. Điều này được Trụ Vũ diễn thành thơ.
"Tội lỗi lớn nhất luân thường
Là tội lớn nhất phụ ơn cao dày" [59, tr. 17].
Những người con nào không biết kính trọng Tam Bảo, Cha mẹ... Đó chính là
đồng nghĩa với sự làm ác. Kinh Mục Liên Sám Pháp đã mô tả: “Những ai xa lánh
những bạn lành, phỉ báng Tam Bảo, không tin tội phúc... Không sợ báo ứng, không
chịu làm thiện, điều ác chẳng từ, bất hiếu Cha mẹ, không trọng họ hàng... Đó chính
là ác” [54, tr. 66].
Những quả báo dành cho những ai không hiếu kính với Cha mẹ phải đọa vào
cảnh khổ được thể hiện qua Kinh Tâm Địa Quán như sau: "Nếu có con trai con gái
nào bội ân, không hiếu thuận với Cha mẹ làm cho Cha mẹ sinh tâm oán niệm, mà
Cha mẹ bực bội nói ra một lời nói ác, tức thời con phải sa đọa theo lời nói ấy hoặc
vào địa ngục, hay ngạ quỷ, súc sinh” [27, tr. 90].
Vào mùa Vu Lan báo ân, chúng ta hằng đêm thường tụng niệm bài Kinh Báo
Hiếu, Phật dạy tội những người con bất hiếu phải gánh chịu những quả báo khổ đau
sau đây:
"Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay
59
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Sau khi chết bị đày vào ngục
Ngũ vô gián cũng gọi A tỳ
Ngục này trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Đốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình..." [31, tr.113].
Theo Kinh Vô Lượng Thọ có năm sự dữ lớn: "Nếu như người nào trên thế
gian, chẳng nghĩ tu thiện, chỉ xúi giục nhau, làm những việc ác, phá hại người hiền,
chẳng hiếu Cha mẹ, khinh bậc Sư trưởng... là thuộc về sự dữ thứ bốn” [31, tr.113].
Còn đối với người thuộc về sự dữ thứ năm: Người thường dựa dẫm lười
biếng, chẳng chịu làm lành, sửa mình tu tập. Cha mẹ dạy bảo, trợn mắt giận dữ, nói
năng chẳng hòa, trái ngược ngang bướng...
Câu chuyện Trái tim người Mẹ hiền kể rằng: Xưa có chàng CôZắc vì yêu cô
nữ Ốc-Xa-Na, muốn cưới nàng làm vợ. Nàng đòi sính lễ với nàng phải là trái tim
người Mẹ. Không ngần ngại, vì tình yêu thúc giục, chàng đã giết Mẹ rồi lấy trái tim
mang đến cho nàng. Do quá gấp gáp nên chàng vấp ngã văng xa, nhưng chàng đã
nghe tiếng nói ngọt ngào đầm ấm quen thuộc của Mẹ hỏi: Con có đau không?
Chúng ta quá xúc động khi nghe câu chuyện trên. Tình thương bao dung độ lượng
xuất phát từ trái tim người Mẹ đối với con như thế nào? Mẹ bằng lòng hy sinh tất
cả, không giận hờn, miễn con được hạnh phúc. Trên đời này, chỉ có Mẹ và trái tim
cao quý của Mẹ mới tha thứ cho đứa con bất hiếu kia.
Đường dài chân mỏi mắt hoa
Vừa lên thềm cửa chân sa ngã nhào
Tim Mẹ đập ứa máu đào
Mà còn hỏi nhỏ nơi nào con đau?
Xã hội hiện nay khác hơn xưa, phần lớn con cái tự quyết định, ít vâng lời và
không hiếu thảo với Cha mẹ, nên sinh những tai họa lớn mà trong Lá Thơ Tịnh Độ
60
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
đã nói: "Đời này phiêu bạc, xã hội rối loạn, tai trời họa người phát sinh ra chồng
chất, muốn mưu tính vãn cứu, thì hết thảy mọi người phải dốc lòng luân thường,
làm tròn bổn phận, có hiếu với Cha mẹ, hiền từ với con cái..." [15, tr. 257]
2.3.2. Giá trị của đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội hiện nay
Đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước, đạo đức Phật giáo đã góp
phần tạo nên truyền thống văn hóa thực sự giàu bản sắc. Ngày nay, đạo đức Phật
giáo đã có vị trí vững chắc trong nền văn hóa dân tộc - hiện đại.
Phật giáo xây dựng hệ thống đạo đức trên cơ sở hệ thống giáo lý, đó là mối quan hệ
giữa giới, định, tuệ để đi đến giải thoát và giải thoát tri kiến, trong đó giới có vai trò
làm nền tảng cho việc giải thoát. Đạo đức Phật giáo bao gồm các giới cùng các
chuẩn mực và các phạm trù có liên quan với nhau một cách chặt chẽ. Phật giáo xây
dựng một hệ thống đạo đức hoàn chỉnh từ nhận thức, lý luận đến thực hành và việc
áp dụng nó để xây dựng một nếp sống tốt đẹp. Bên cạnh đó Phật giáo còn xây dựng
mẫu người đạo đức đó là con người từ bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha mà thâu tóm là đứng
vững trên hai chân: Từ bi và trí tuệ. Đạo đức Phật giáo có nhiều điểm tương đồng
với đạo đức người Việt. Những phạm trù cơ bản của đạo đức Phật giáo đã ảnh
hưởng khá sâu đậm vào đời sống người Việt. Ngày nay, với sự chấn hưng của Phật
giáo Việt Nam, đạo đức Phật giáo sẽ góp phần hết sức to lớn vào việc xây dựng một
xã hội hài hòa, phát triển.
Đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống của người Việt Nam: Đạo Phật
đồng hành với dân tộc Việt Nam, từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay đã 2000
năm lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản văn hóa dân tộc. Trong quá
trình phát triển tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của
con người mà còn có vai trò góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Ngoài
những điểm phù hợp với tình cảm đạo đức của con người, đạo đức Phật giáo còn
thực hiện thông qua tình cảm, tín ngưỡng, niềm tin và giáo lý. Do đó, tình cảm đạo
đức Phật giáo được người Việt tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và
chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng. Do tuân thủ những
điều răn dạy về đạo đức của Phật giáo, người Việt đã sống và ứng xử đúng đạo lý,
góp phần làm cho xã hội ngày thêm tốt đẹp.
61
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đạo đức Phật giáo thông qua những giáo luật, giáo lý và các giá trị, chuẩn
mực đã đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Sự ảnh hưởng của đạo đức Phật
giáo đến đời sống của người Việt Nam không chỉ là giáo lý qua kinh kệ, sách vở mà
đã trở thành phong tục, cách sống của dân tộc, của mọi gia đình. Người Việt Nam
truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, phụng dưỡng
cha mẹ, tri ân những người có công với cộng đồng, làm điều thiện… đó cũng chính
là những điều luân lý đạo đức cụ thể mà Phật giáo đã truyền dạy. Đạo đức Phật giáo
đã thực sự đi vào cuộc sống, đi vào tâm linh mỗi con người. Trong suốt chiều dài
của lịch sử, đạo đức Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát triển
của dân tộc, những nhân tố quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm,
chuẩn mực, hệ giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại.
Đạo đức Phật giáo với kinh tế trong bối cảnh thị trường hiện nay: Trong giáo
lý “Bát chính đạo” đức Phật có đề cập đến “chính mệnh” sinh sống bằng nghề
nghiệp chân chính. Người khuyên mọi người kiếm sống bằng chính sức lao động và
tiền vốn của mình, trí tuệ của mình chứ không được buôn bán gian lận, buôn bán
hàng quốc cấm và các loại hàng hóa có hại cho sức khỏe con người và xã hội. Trong
cuộc sống mỗi người phải lao động làm việc để tạo ra nguồn của cải vật chất nuôi
sống mình và gia đình. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ngày nay, đạo đức
Phật giáo góp phần không nhỏ trong việc giáo dục con người, hướng con người tới
những điều thiện, từ đó giảm bớt thiệt hại cho người tiêu dùng và đặc biệt là những
nguy hiểm chết người. Đây chính là mặt tích cực của đạo đức Phật giáo giúp con
người và nhân loại có cuộc sống an lạc hạnh phúc.
“Chính mệnh” trong Bát chính đạo của Phật giáo còn có nghĩa là biết làm
chủ cuộc sống, không lãng phí, không bủn xỉn, biết làm phúc và cúng dàng. Biết
chăm lo cuộc sống của người thân, quyến thuộc, biết tích lũy cho đời nay và
chuẩn bị cho đời sau. Đức Phật dạy rằng các cư sĩ sống bình thường ở gia đình
có 4 điều lạc thú: Một là được hưởng cảm giác an toàn do có của cải và cơ sở
kinh tế có được bằng phương pháp chính đáng; Hai là có thể khảng khái sử dụng
của cải ấy cho mình, cho người nhà và cho bạn hữu, đồng thời dùng nó để làm
62
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
nhiều việc từ thiện; Ba là không bị khổ sở vì nợ nần; Bốn là có thể sống cuộc đời
thanh tịnh, không lỗi lầm.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cần coi trọng việc xây
dựng hoàn thiện đạo đức nhằm phát triển con người một cách toàn diện. Nền đạo
đức mà chúng ta đang xây dựng là sự kết tinh, kế thừa những giá trị đạo đức truyền
thống của nhân loại, của dân tộc, trong đó có những giá trị đạo đức Phật giáo.
Đạo đức Phật giáo với văn hóa: Thực tế cho thấy Phật giáo Việt Nam từ thế
kỷ XX đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho nền văn hóa dân tộc - hiện đại.
Trong triển vọng phát triển chung của Tôn giáo thế giới, Phật giáo Việt Nam cũng
đồng hành hướng tới giải quyết những nhiệm vụ cơ bản đặt ra với con người hiện
đại, đặc biệt ở bước đi tương đồng với những quốc gia lân bang cùng điều kiện và
hoàn cảnh.
Triết lý của Phật giáo về Từ bi, về tình thương yêu rất phù hợp với truyền
thống giàu lòng nhân ái vốn có của người Việt: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”;
“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”; “Thương người
như thể thương thân”… Sự kết hợp những nét độc đáo trong phương pháp tư duy,
trong văn học, nghệ thuật của người Việt Nam. Những giá trị, khuyến thiện, hướng
thiện không chỉ phát huy tác dụng trong hàng ngũ tín đồ mà còn ảnh hưởng rộng rãi
trong đời sống nhân dân, góp phần hình thành nên những quan niệm sống giàu tính
nhân văn sâu sắc.
Đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước, đạo đức Phật giáo đã góp
phần tạo nên truyền thống văn hóa thực sự giàu bản sắc. Ngày nay, đạo đức Phật
giáo đã có vị trí vững chắc trong nền văn hóa dân tộc - hiện đại. Một thời đại mới
đang mở rộng ra cùng với những thách thức của hội nhập và phát triển, lợi ích cá
nhân và cộng đồng, phẩm chất vị tha và cạnh tranh thị trường đòi hỏi sự năng động
của đạo đức Phật giáo, yêu cầu phát huy và dung hợp những giá trị nhân bản bền
vững của Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc - hiện đại. Có thể khẳng
định vị trí vững chắc của đạo đức Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc.
63
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đạo đức Phật giáo với xã hội Việt Nam hiện nay: Đức Phật dạy từ việc lớn
như quốc gia, chính sự đến việc nhỏ như hòa khí trong gia đình. Tư tưởng Từ bi, hỷ,
xả, cứu khổ, cứu nạn của nhà Phật vẫn đang được nhân dân Việt Nam nói riêng và
nhân loại nói chung tiếp thu và phát huy trong đời sống xã hội. Một số quy tắc của
đạo đức Phật giáo giữ gìn tam quy, ngũ giới, thập thiện,… Có những nét tương
đồng với các quy tắc, chuẩn mực của nền đạo đức xã hội vẫn đang được nhiều
người tin theo và khuyến khích phát huy. Đó là những quy tắc sống mà xã hội nào
cũng rất cần đến để duy trì một nền đạo đức, một nếp sống lành mạnh và hạnh phúc
cho con người.
Cùng với thời gian, Phật giáo Việt Nam đã điểm vào trang lịch sử của mình
những nét vàng son. Những chuẩn mực của đạo đức Phật giáo vẫn đang có những
đóng góp cho việc duy trì một nền đạo đức xã hội, khơi dậy truyền thống yêu nước,
nhân nghĩa, tương thân tương ái trong cộng đồng, xây dựng con người Việt Nam
đạo đức và văn hóa tốt đẹp.
Đạo đức Phật giáo với việc xây dựng đạo đức, lối sống của người Việt Nam:
Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, đạo đức Phật giáo đã
dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức, hướng con
người đến lối sống, vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh, đạo đức Phật
giáo phù hợp với đạo đức, lẽ sống của con người Việt Nam và nó đã có những đóng
góp tích cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế
thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.
Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa
nhân đạo, tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hòa
đồng liên kết giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, lòng
từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững tinh thần lá lành đùm lá
rách của dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con người giảm bớt cái tôi vị kỷ…
Những giá trị tích cực đó của đạo đức Phật giáo càng được nhân lên với những hành
động cụ thể, như kẻ đói được cho ăn, kẻ rách được cho mặc, người ốm đau bệnh tật
64
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
được chăm sóc… Đạo đức Phật giáo khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”,
lấy chữ hiếu làm đầu: “Hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, “muôn việc ở
thế gian không gì hơn công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”. Thêm vào đó, những
không gian chùa chiền của Phật giáo luôn thu hút con người tìm về chốn tĩnh tâm,
nơi chiêm nghiệm và cảm nhận…Tất cả những điều đó là những giá trị đạo đức tích
cực, thiết thực góp phần giáo hóa con người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước
cám dỗ của cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương
thiện, coi trọng tính nhân bản, coi trọng thiên nhiên…
Ngày nay với phương châm Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội, đạo đức
Phật giáo đã góp phần tích cực vào các phong trào phát triển xã hội, bảo vệ môi
trường. Đặc biệt công tác từ thiện với tinh thần cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật, hòa
cùng truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc, tăng ni phật tử đã tổ chức cứu
trợ cho đồng bào bị thiên tai bão lụt, cho những vùng quê nghèo khó, cho những
mảnh đời bất hạnh…Những hoạt động từ thiện đó của đạo Phật cùng nhằm điều
chỉnh tính cách, lối sống, góp phần hình thành nhân cách của một con người có ích
cho xã hội.
Tiểu kết chương 2
Đối với đạo Phật, thực hành hiếu thảo là con đường giải thoát của chính
pháp, là con đường của người Phật tử. Không hiếu thảo với cha mẹ thì không thể
gọi là một người Phật tử chân chính được. Bởi vì người Phật tử thì phải thực
hành các thiện pháp mà trong kinh “Nhẫn nhục” nói rằng: “Điều thiện tối cao là
chí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu”. Vì vậy, báo hiếu là bản chất của người Phật
tử và đã trở thành truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam nói riêng, Á
Đông nói chung.
Không có gì hạnh phúc, sung sướng khi còn có Mẹ, có Cha. Người con phải
biết trân quý và kính dường Mẹ Cha khi họ đang còn sống, đừng để đến lúc Mẹ Cha
qua đời mới bày lễ lược, cầu cúng cho thật lớn, khóc cho thật nhiều . Đây là những
lời Cha mẹ dạy dỗ các con để duy trì nếp sống lễ giáo, đạo đức của Gia đình và
65
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
truyền thống Dân tộc mà chính Đức Phật vẫn quan tâm và luôn luôn nhắc nhở
chúng ta phải biết trân quý, giữ gìn như những bảo vật giá trị nhất trong cuộc đời.
Mặt khác, theo đạo Phật quan niệm tất cả chúng sinh là Cha mẹ của mình. Ngoài
việc báo đáp thâm ân Cha mẹ của mình hiện nay, người Phật tử còn có nhiệm vụ
báo hiếu cho Cha mẹ nhiều đời của mình bằng phương thức gián tiếp. Tất cả mọi
người ai cũng có trách nhiệm truyền bá tư tưởng đạo Hiếu để cho những người con
học tập và thực hành phương pháp báo hiếu đúng chính pháp, đem đến lợi ích cho
tất cả những người Cha mẹ khác trong xã hội sẽ trở thành một nền tảng đạo đức cơ
bản cho con người, tâm hiếu là một tâm lý có tính cách văn minh, văn hoá. Truyền
bá đạo hiếu sẽ tạo nên một truyền thống tốt đẹp, từ đó xã hội có điều kiện xây dựng
hạnh phúc cho con người ngày càng tiến bộ và tốt đẹp hơn. Người người hạnh phúc
tốt đẹp, nhà nhà an lạc, thế giới hòa bình thịnh trị.
66
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Chương 3
Ý NGHĨA CHỮ HIẾU CỦA PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY

More Related Content

PDF
Giáo trình Kinh tế Chính trị Marx - Lenin
DOC
Báo cáo kiến tập
PDF
Đề tài: Tìm hiểu công tác phát triển thị trường tại Công ty Dai-ichi Life – Đ...
PDF
Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương
DOC
Ngôn ngữ văn chương
DOC
Tài liệu môn tư tưởng hồ chí minh
PDF
Hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn toàn cầu về an toàn th...
DOC
TIỂU LUẬN Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...
Giáo trình Kinh tế Chính trị Marx - Lenin
Báo cáo kiến tập
Đề tài: Tìm hiểu công tác phát triển thị trường tại Công ty Dai-ichi Life – Đ...
Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương
Ngôn ngữ văn chương
Tài liệu môn tư tưởng hồ chí minh
Hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn toàn cầu về an toàn th...
TIỂU LUẬN Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...

What's hot (20)

PPTX
Hướng dẫn làm kế hoạch truyền thông PR chi tiết
DOC
TÁC ĐỘNG CỦA QUẢNG CÁO TRÊN MẠNG XÃ HỘI ĐẾN HÀNH VI MUA SẮM TRỰC TUYẾN CỦA GI...
PDF
Thống kê dân số tphcm 2015
PDF
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀN...
DOCX
Khóa luận: Nhân tố tác động đến quyết định lựa chọn trường Đại Học
PDF
BẢNG TRA PHÂN PHỐI CHI-SQUARE
PPT
Bài thảo luận 3
PDF
Đề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
DOCX
ASM_PRO1131_Nhom6_EC17331_quannvph26895 (1).docx
PPTX
Những Mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
PDF
CẨM NANG TƯ VẤN TUYỂN SINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH_10554612092019
PDF
Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Công ty TNHH NN ...
DOCX
Phiếu đánh giá của nhóm cho các cá nhân trong nhóm
DOCX
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
PDF
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
PDF
BÀI TẬP KẾ TOÁN CHI PHÍ (CÓ LỜI GIẢI)
PDF
TIỂU LUẬN: “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” – ÁNG HÙNG VĂN LẬP QUỐC MANG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ ...
DOC
PDF
Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghi...
PPTX
Thuyết trình Tư Tưởng HCM
Hướng dẫn làm kế hoạch truyền thông PR chi tiết
TÁC ĐỘNG CỦA QUẢNG CÁO TRÊN MẠNG XÃ HỘI ĐẾN HÀNH VI MUA SẮM TRỰC TUYẾN CỦA GI...
Thống kê dân số tphcm 2015
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀN...
Khóa luận: Nhân tố tác động đến quyết định lựa chọn trường Đại Học
BẢNG TRA PHÂN PHỐI CHI-SQUARE
Bài thảo luận 3
Đề cương ôn thi môn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
ASM_PRO1131_Nhom6_EC17331_quannvph26895 (1).docx
Những Mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
CẨM NANG TƯ VẤN TUYỂN SINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH_10554612092019
Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Công ty TNHH NN ...
Phiếu đánh giá của nhóm cho các cá nhân trong nhóm
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
BÀI TẬP KẾ TOÁN CHI PHÍ (CÓ LỜI GIẢI)
TIỂU LUẬN: “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” – ÁNG HÙNG VĂN LẬP QUỐC MANG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ ...
Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghi...
Thuyết trình Tư Tưởng HCM
Ad

Similar to CHỮ HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ.docx (20)

PDF
Chữ-hiếu-trong-đạo-Phật-và-ý-nghĩa-hiện-thời-của-nó-thac-si-toan-van.pdf
DOC
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.doc
PDF
Luận văn: Hội Châu Quang của người Hoa tại tỉnh Sóc Trăng, HAY
PDF
Luận án: Tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên
PDF
Luận văn Văn hoá ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương
DOC
Báo cáo Quản lý nhà nước về văn hóa ở thành phố kon tum, tỉnh kon tum.doc
DOC
Luận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - Trần
PDF
Luận văn Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn văn hóa
PDF
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
PDF
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn La
PDF
Luận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng Sơn
PDF
Luận án: Chợ truyền thống trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
PDF
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
DOC
Khóa luận: Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, HAY
PDF
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
DOCX
Cơ sở lý luận về văn hóa ứng xử và qui tắc ứng xử tại các bệnh viện công thuộ...
DOC
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
PDF
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
DOCX
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
PDF
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Chữ-hiếu-trong-đạo-Phật-và-ý-nghĩa-hiện-thời-của-nó-thac-si-toan-van.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.doc
Luận văn: Hội Châu Quang của người Hoa tại tỉnh Sóc Trăng, HAY
Luận án: Tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên
Luận văn Văn hoá ứng xử trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương
Báo cáo Quản lý nhà nước về văn hóa ở thành phố kon tum, tỉnh kon tum.doc
Luận văn: Phật giáo với văn hóa đạo đức Việt Nam nói chung và thời đại Lý - Trần
Luận văn Văn xuôi của Trần Thanh Cảnh từ góc nhìn văn hóa
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn La
Luận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng Sơn
Luận án: Chợ truyền thống trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
Khóa luận: Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, HAY
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Cơ sở lý luận về văn hóa ứng xử và qui tắc ứng xử tại các bệnh viện công thuộ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
La33.007 phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉn...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Ad

More from 💖Nhận Làm Đề Tài Trọn Gói 💖 Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 (20)

DOCX
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với thu-chi ngân sách địa phương.docx
DOCX
Cơ sở lý luận về phòng vệ chính đáng.docx
DOCX
Cơ sở lý luận về bảo hiểm tai nạn lao động.docx
DOC
Cơ sở lý luận về marketing và chiến lược marketing mix xuất khẩu.doc
DOCX
Cơ sở lý luận về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.docx
DOCX
Cơ sở lý luận về tuyển dụng nhân sự trong doanh nghiệp MỚI NHẤT.docx
DOCX
Cơ sở lý luận về xếp hạng tín nhiệm và một số tổ chức định mức tín nhiệm chuy...
DOC
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN TÁC PHẨM CỦA TÔ HOÀI.doc
DOC
Thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
DOC
Năng lực công chức văn phòng thống kê cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.doc
DOC
Quản lý nhà nước về môi trường nước từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình.doc
DOC
Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đăng ký kinh ...
DOC
Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định ...
DOC
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng theo pháp luật hình sự v...
DOC
Chế định án treo theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố Hà Nộ...
DOC
Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động theo pháp luật việt nam.doc
DOC
Hoàn thiện Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở khu vực Asean.doc
DOC
Giải pháp quản lý đội ngũ giáo viên tại các trường THPT tỉnh BR-VT.doc
DOCX
Giải pháp hoàn thiện hoạt động tuyển dụng nhân lực tại công ty xi măng bỉm sơ...
DOC
Định hướng và giải pháp nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn ở tỉnh bình ...
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với thu-chi ngân sách địa phương.docx
Cơ sở lý luận về phòng vệ chính đáng.docx
Cơ sở lý luận về bảo hiểm tai nạn lao động.docx
Cơ sở lý luận về marketing và chiến lược marketing mix xuất khẩu.doc
Cơ sở lý luận về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.docx
Cơ sở lý luận về tuyển dụng nhân sự trong doanh nghiệp MỚI NHẤT.docx
Cơ sở lý luận về xếp hạng tín nhiệm và một số tổ chức định mức tín nhiệm chuy...
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN TÁC PHẨM CỦA TÔ HOÀI.doc
Thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Năng lực công chức văn phòng thống kê cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.doc
Quản lý nhà nước về môi trường nước từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình.doc
Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đăng ký kinh ...
Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định ...
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng theo pháp luật hình sự v...
Chế định án treo theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố Hà Nộ...
Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động theo pháp luật việt nam.doc
Hoàn thiện Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở khu vực Asean.doc
Giải pháp quản lý đội ngũ giáo viên tại các trường THPT tỉnh BR-VT.doc
Giải pháp hoàn thiện hoạt động tuyển dụng nhân lực tại công ty xi măng bỉm sơ...
Định hướng và giải pháp nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn ở tỉnh bình ...

Recently uploaded (20)

PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
PPTX
VNR202 LỊCH SỬ ĐẢNG, MÔN HỌC CẦN THIẾT C
PDF
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT SỐNG MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 7 ...
PDF
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
PDF
SÁNG KIẾN “MỘT SỐ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH THAM GIA CUỘC THI KHOA HỌC K...
PDF
Cơ bản về matlab simulink cho người mới bắt đầu
PPTX
Bai 11.1 Tuan hoan mau.cấu tạo và vai trò pptx
PPTX
thehhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
PDF
GIÁO TRÌNH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ TH...
PDF
TUYỂN TẬP ĐỀ KIỂM TRA HÓA HỌC HỮU CƠ THI THỬ OLYMPIC HÓA HỌC QUỐC TẾ (VÒNG 2)...
PDF
ki_nang_tu_van_ca_nhan_ve_lua_chon_va_phat_trien_nghe_final_130806_1.pdf
DOCX
Sổ chỉ tiêu thực tập rhm hoàn chỉnh.docx
PPTX
CNDVBC - Chủ nghĩa duy vật biện chứng...
PDF
BÀI GIẢNG CƠ SỞ SINH HỌC NGƯỜI - KHOA SƯ PHẠM KHOA HỌC TỰ NHIÊN ĐẠI HỌC ĐỒNG ...
PPTX
Slide chương 3 môn thẩm định tài chính dự án
PDF
DANH SACH TRUNG TUYEN_TUNG NGANH 2025.pdf
PDF
Mua Hàng Cần Trở Thành Quản Lý Chuỗi Cung Ứng.pdf
DOCX
ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG VÀ KỸ NĂNG SỐNG
PDF
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 CẦU LÔNG - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO C...
VNR202 LỊCH SỬ ĐẢNG, MÔN HỌC CẦN THIẾT C
SÁNG KIẾN THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VẬT SỐNG MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 7 ...
FULL TN LSĐ 2024 HUIT. LICH SU DANGGGGGG
SÁNG KIẾN “MỘT SỐ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH THAM GIA CUỘC THI KHOA HỌC K...
Cơ bản về matlab simulink cho người mới bắt đầu
Bai 11.1 Tuan hoan mau.cấu tạo và vai trò pptx
thehhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
GIÁO TRÌNH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ TH...
TUYỂN TẬP ĐỀ KIỂM TRA HÓA HỌC HỮU CƠ THI THỬ OLYMPIC HÓA HỌC QUỐC TẾ (VÒNG 2)...
ki_nang_tu_van_ca_nhan_ve_lua_chon_va_phat_trien_nghe_final_130806_1.pdf
Sổ chỉ tiêu thực tập rhm hoàn chỉnh.docx
CNDVBC - Chủ nghĩa duy vật biện chứng...
BÀI GIẢNG CƠ SỞ SINH HỌC NGƯỜI - KHOA SƯ PHẠM KHOA HỌC TỰ NHIÊN ĐẠI HỌC ĐỒNG ...
Slide chương 3 môn thẩm định tài chính dự án
DANH SACH TRUNG TUYEN_TUNG NGANH 2025.pdf
Mua Hàng Cần Trở Thành Quản Lý Chuỗi Cung Ứng.pdf
ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG VÀ KỸ NĂNG SỐNG
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 THEO FORM THI MỚI BGD - TẬP 2 - NĂM HỌC 2025-202...
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 11 BÓNG RỔ - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THEO CÔ...

CHỮ HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ.docx

  • 1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ MINH PHƯƠNG (Thích Đàm Hiền) CHỮ HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI
  • 2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ MINH PHƯƠNG (Thích Đàm Hiền) CHỮ HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ Chuyên ngành Mã số : Triết học : 60220301 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN THANH XUÂN HÀ NỘI
  • 3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không có sự hợp tác của ai, không sao chép hay dựa vào tác phẩm nào từ trước đến giờ. Luận văn này chưa nộp cho bất kỳ trường nào để được cấp phát bất kỳ chứng chỉ hay văn bằng nào. Các tài liệu tham cứu trích dẫn trong Luận văn là hoàn toàn trung thực. Học viên Lê Thị Minh Phương
  • 4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các nhà khoa học là các Giáo sư, Tiến sĩ, các thầy cô giáo và những người đã trực tiếp giảng dạy và trau dồi kiến thức cho tôi trong suốt khóa học này. Đặc biệt tôi xin chân thành bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn - PGS.TS Nguyễn Thanh Xuân, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Hội đồng khoa học Khoa Triết học của Học viện Khoa học xã hội. Xin chân thành cảm ơn toàn thể học viên, đồng nghiệp và bạn bè đã động viên, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Hà Nội, năm 2016 Học viên Lê Thị Minh Phương
  • 5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 MỤC LỤC MỞĐẦU....................................................................................................................1 Chương 1. CHỮ HIẾU VÀ MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CHỮ HIẾU.................7 1.1. Chữ Hiếu và đạo đức xã hội.................................................................................7 1.2. Chữ Hiếu theo quan niệm Nho giáo...................................................................12 1.3. Chữ Hiếu theo truyền thống Việt Nam ..............................................................19 Chương 2. CHỮ HIẾU THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ........................................................................................................26 2.1. Khái quát về triết lý nhân sinh quan của Phật giáo............................................26 2.2. Quan niệm của Phật giáo về chữ Hiếu...............................................................35 2.3. Các biểu hiện cụ thể về ân Cha mẹ và giá trị đạo đức Phật giáo trong xã hội ngày nay ....................................................................................................................52 Chương 3. Ý NGHĨA CHỮ HIẾU CỦA PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY .................................................................................................. 67 3.1. Đạo đức xã hội và những vấn đề đặt ra về chữ Hiếu .........................................67 3.2. Phát huy chữ Hiếu của Phật giáo trong xã hội hiện nay ....................................72 KẾT LUẬN..............................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................81
  • 6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 MỞĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử dân tộc cho thấy Phật giáo đến Việt Nam đã gắn bó hài hòa với dân tộc. Suốt hơn hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo Việt Nam đóng góp rất quan trọng vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước và nền văn hóa dân tộc. Đó chính là tiếng nói Từ Bi - Vô Ngã - Vị Tha và con đường sống Giới - Định - Tuệ, nhằm đưa đời sống con người đạt tới Chân - Thiện - Mỹ. Bước sang thế kỷ XXI là giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn minh khoa học, giai đoạn mà con người có thể thỏa mãn về các nhu cầu vật chất. Từ nền văn minh thủ công lấy lao động chân tay làm chủ yếu, con người đã tiến tới văn minh đại công nghiệp với lao động chủ yếu bằng máy móc, con người có thể ngồi một chỗ để điều khiển mọi thứ. Tuy thế, chúng sinh vẫn bị khổ đau và con người chưa được hạnh phúc thực sự. Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhân loại đã có những bước tiến dài về kinh tế, nhưng mặt trái của nó là lối sống chạy theo lợi nhuận mà bất chấp tất cả: Vi phạm chuẩn mực đạo đức, truyền thống văn hóa, vi phạm pháp luật,... Chính vì vậy mà muốn có hạnh phúc thì con người cần phải sống cuộc sống thương yêu, giúp đỡ và chia sẻ lẫn nhau mới mong có được một xã hội thái bình, tự do, bình đẳng và bác ái. Một xã hội đầy tình người không thể được xây dựng bằng những con người ích kỷ, ngạo mạn, tranh chấp, thù hận, vong ơn bội nghĩa,… Một xã hội thái bình bác ái phải được xây dựng bởi những cá nhân biết tôn trọng, thương yêu giúp đỡ người khác, gia đình là một xã hội thu nhỏ của nhân loại. Ở đây đạo đức con người phải được thiết lập và xây dựng một cách bền vững. Vấn đề tình người đặt ra trong gia đình là: Mỗi thành viên trong gia đình phải biết Hiếu với cha mẹ, phải thuận thảo với anh chị em ruột thịt, phải có nghĩa với bà con xóm giềng. Làm như vậy là làm tròn bổn phận của con người trong chuẩn mực đạo đức của gia đình và xã hội. Và hiển nhiên rằng một người có hiếu với cha mẹ thì cũng có tình, trung, nghĩa, nhân. Bất cứ ở một xã hội nào, một thời đại nào, ân nghĩa cao cả của cha mẹ cũng được đền đáp, lòng hiếu thảo của con cái luôn được xem là tấm lòng đẹp nhất và 1
  • 7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 nhân loại luôn ca ngợi những người có hiếu. Hạnh hiếu chính là việc làm đầu tiên của con người có tình người và là việc làm thiết thực đúng đắn của tinh thần biết ơn và trả ơn. Hiếu là một phạm trù của đạo đức xã hội, là một đức tính cơ bản để xây dựng con người có tình người. Từ “Hiếu tâm” mà nó phát sinh ra các đức tính khác như: Nhân - Lễ - Trung - Nghĩa… Trong Đạo đức - Tình người, “Hiếu đạo” chính là việc làm mang tình người lớn nhất và nó đứng đầu các hành động, đồng thời hiếu hạnh cũng là đức hạnh đứng hàng đầu của những đức hạnh con người. Từ tâm hiếu, tình người được giáo dục tôi luyện, phát triển và được biểu lộ ra hành động, ra các hành vi cư xử ở đời nhằm xây dựng tốt các mối quan hệ tương giao xã hội, an lạc, hạnh phúc chung cho gia đình, tập thể. Hiếu tâm, đạo đức là con suối tình người chảy vào văn hóa, giáo dục tạo nên các nền văn hóa, giáo dục nhân bản. Trong các nền văn hóa này, thực chất của hiếu tình, trung nghĩa là chỉ một tình người cao đẹp. Người có mặt tâm hiếu là có nhân, có tình, trung nghĩa. Đây chính là lý do căn bản thúc đẩy người viết chọn đề tài: Chữ Hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa hiện thời của nó, làm luận văn thạc sỹ nhằm góp phần làm rõ phạm trù chữ Hiếu trong Phật giáo. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiếu đạo vốn là một đạo lý có từ ngàn đời, nó tồn tại và phát triển trong thế giới con người, vì từ muôn ngàn đời nay, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái không hề vơi cạn, nó luôn đong đầy theo dòng chảy thời gian để dưỡng nuôi những mầm sống được lớn khôn và trở thành người hữu ích. Đối với những dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và truyền thống đạo đức lâu đời như dân tộc Việt Nam chúng ta, Hiếu đạo càng được đề cao và là một trong những đạo lý cơ bản của dân tộc. Có thể thấy mỗi xã hội, mỗi tôn giáo... đều có quan niệm khác nhau về đạo đức và những đạo lý của con người, nhưng cùng có một điểm chung đó là đề cao giá trị văn hóa, đạo đức của hiếu đạo. Nội dung thể hiện chính trong tư tưởng hiếu đạo trong kinh điển Phật giáo, hay cụ thể hơn là luận bàn một số nét chính về chữ 2
  • 8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 “Hiếu” trong Phật giáo, một trong những tôn giáo đề cập và luận giải về đạo Hiếu nhiều nhất, đầy đủ nhất và đặc biệt nhất trong các tôn giáo của nhân loại. Truyền thống hiếu đạo thời kỳ này còn được thẩm thấu qua hàng loạt các truyền thuyết, thần thoại như sự tích Bánh chưng - bánh dày (Lang Liêu và các hoàng tử chúc thọ Hùng Vương), sự tích Quả dưa hấu (Mai An Tiêm biết mình bị vu oan song vẫn tuân mệnh vua đi đày vì đạo Hiếu), truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh (Mỵ Nương tuân theo sự sắp xếp của vua cha), Mỵ Châu - Trọng Thủy (An Dương Vương giết Mỵ Châu vì bất hiếu, bất trung) v.v.. Dù rằng nguồn gốc các truyền thuyết, thần thoại nói trên cần phải bàn thêm, song chúng đều phản ánh một sự hoài niệm nào đó của lịch sử - xã hội. Như vậy, đạo Hiếu bắt nguồn tự nhiên từ thực tiễn đời sống canh nông ở Việt Nam. Nó vừa mang tính tôn ti vừa mang tính dân chủ do chịu ảnh hưởng của phương thức định cư kiểu làng xã có tổ chức chặt chẽ và kiểu sản xuất nông nghiệp lúa nước. Nguyễn Du - Nhà thơ lớn của nước ta cuối thế kỉ XVIII, bằng tâm huyết và tài năng trác tuyệt của mình đã xây dựng thành công kiệt tác "truyện Kiều". Trong tác phẩm nói lên hình tượng nhân vật bất hủ là Thúy Kiều - Người con gái tài sắc vẹn toàn Thúy Kiều là người con chí hiếu. Trước tai họa bất ngờ của gia đình, cha bị vu oan, bị tra tấn dã man, nhà cửa bị lũ sai nha cướp phá tan hoang, trái tim Kiều đau đớn như bị xé ra từng mảnh, dồn đến đường cùng và nàng phải bán mình chuộc cha, một hành động cao đẹp ấy chính là lòng hiếu thảo. Trong tác phẩm “Một số tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thanh Xuân, tác giả đã vẽ lên một bức tranh sinh động, khái quát về các tôn giáo trên thế giới và ở Việt Nam, trong đó có đạo Phật. Tác giả đã đề cập đến ở góc nhìn đa diện về Phật giáo nói riêng và các tôn giáo lớn khác nói chung về sự ra đời, quá trình phát triển, đặc trưng giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức bộ máy giáo hội, việc du nhập hoặc phát triển ở Việt Nam, mối quan hệ quốc tế và thực trạng tôn giáo hiện nay. 3
  • 9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Trong những năm đầu thế kỷ XXI là cùng với việc tiếp thu những giá trị nhân văn trong xu thế hội nhập, đồng thời phải phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Chính vì thế, định hướng cơ bản cho gia đình Việt Nam phát triển bền vững trong xu thế hội nhập quốc tế đã được Đảng và Nhà nước ta xác định trong Chỉ thị 49- CT/TW (ngày 21 tháng 02 năm 2005) của Ban Bí thư về "Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Tư tưởng chủ đạo của văn bản quan trọng này đòi hỏi chúng ta cần nhận thức rõ: Gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Trong các công trình nghiên cứu trên, đạo hiếu của Phật giáo đã được nghiên cứu ở các tầng bậc khác nhau. Mặc dù có rất nhiều dịch giả, tác giả, nhiều công trình nghiên cứu đến chữ Hiếu đối với việc giáo dục đạo đức con người cũng đã được đề cập song chỉ dừng lại ở những gợi mở khoa học, những tiếp cận ban đầu hoặc tư tưởng phát sinh trong tổng thể một vấn đề lớn. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên là những nguồn tư liệu quý giá để tác giả kế thừa để hoàn thành bản luận văn:“Chữ Hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa hiện thời của nó”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trong Luận văn phân tích rõ chữ Hiếu hay đạo Hiếu qua công ơn, cách biết ơn, báo ơn và đền ơn đối với Cha mẹ qua lăng kính Phật giáo; từ đó chỉ ra và phân tích đánh giá vai trò và ý nghĩa của chữ Hiếu đối với đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu vào 3 nhiệm vụ chính như sau: Thứ nhất: Chữ Hiếu và một số quan niệm về chữ Hiếu. Thứ hai: Chữ Hiếu theo quan niệm Phật giáo và biểu hiện của nó. Thứ ba: Ý nghĩa chữ Hiếu của Phật giáo trong xã hội hiện nay. 4
  • 10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu chữ Hiếu theo quan điểm Phật giáo thể hiện qua lễ hội Vu Lan và truyền thống uống nước nhớ nguồn, ý nghĩa hiếu hạnh của người con đối với hai đấng sinh thành. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu môi trường tự nhiên, cụ thể là nghiên cứu: “Chữ Hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa hiện thời của nó”. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Để hoàn thành Luận văn tác giả dựa vào hệ thống giáo lý Kinh điển Đại thừa không ngoài Tam tạng Thánh điển của Đức Phật. Ngoài ra, luận văn còn kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đã được các tác giả đi trước công bố có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu để rút ra các kết luận, nhận định khoa học, quy nạp và diễn dịch... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Hệ thống hóa tương đối đầy đủ về chữ Hiếu trong đạo Phật và phân tích ý nghĩa hiện thời của nó. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn “Chữ Hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa hiện thời của nó” là nền tảng đầu tiên cho quá trình nghiên cứu đồng thời với mong muốn từ kết quả nghiên cứu này góp phần giúp những người học Phật và những người muốn tìm hiểu Phật pháp có một tài liệu tham khảo về chữ Hiếu. 5
  • 11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, nội dung, luận văn gồm 3 chương và 8 tiết. Chương 1: Chữ Hiếu và một số quan niệm về chữ Hiếu Chương 2: Chữ Hiếu theo quan niệm của Phật giáo và biểu hiện của nó Chương 3: Ý nghĩa chữ Hiếu của Phật giáo trong xã hội hiện nay 6
  • 12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Chương 2 CHỮ HIẾU THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ 2.1. Khái quát về triết lý nhân sinh quan của Phật giáo 2.1.1. Khái quát về Phật giáo Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, là một tôn giáo lớn trên thế giới với hệ thống giáo lý đồ sộ đã ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Phật giáo đã chỉ ra sự tồn tại của con người là đau khổ (Khổ đế), chỉ rõ nguyên nhân của đau khổ (Tập đế), đưa ra khả năng khắc phục sự đau khổ (Diệt đế) và đưa ra con đường thoát khỏi đau khổ (Đạo đế). Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ II SCN, trải qua bốn giai đoạn chính, đó là: Đầu công nguyên đến thời Bắc thuộc, hình thành và phát triển; Thời nhà Lý, Trần phát triển cực thịnh; Đầu thế kỷ XX đến nay, diễn ra phong trào phục hưng. Tuy trải qua biến cố thăng trầm cùng lịch sử dân tộc như vậy nhưng vai trò của Phật giáo vẫn không hề thay đổi mà ngày càng có những ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của người dân nước ta. Biểu hiện trong đời sống chính trị và pháp luật; Trong văn học, ca dao dân ca; Trong quan niệm đạo lý, tư tưởng; Trong phong tục, tập quán, tín ngưỡng; Trong ý thức thẩm mỹ, nghệ thuật; Trong văn hóa;… Nhất là trong xu thế mở cửa hội nhập ngày nay, bên cạnh sự phát triển của kinh tế-chính trị-xã hội là mặt trái với xu hướng suy thoái đạo đức nhân cách con người, chính những tư tưởng tích cực trong triết lý nhân sinh của Phật giáo sẽ góp phần điều chỉnh hành vi và nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới. Phật giáo là một trong những học thuyết triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới và đã tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý rất đồ sộ, được du nhập vào nước ta. Ngoài những thành tựu đã đạt được về mặt kinh tế - văn hóa - xã hội là mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nó đã làm nảy sinh nhiều tiêu cực gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về triết lý nhân sinh Phật giáo cùng với quá trình du nhập, tồn tại, phát triển của nó 26
  • 13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 tại Việt Nam sẽ làm nổi bật được những ảnh hưởng đến đời sống tinh thần nơi người dân nước ta. Phật giáo ra đời trong điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội, tiền đề nhận thức tư tưởng Ấn Độ rất phức tạp. Khoảng thế kỷ VI-TCN đã xuất hiện nhà nước chiếm hữu nô lệ với chế độ phân chia giai cấp. Xã hội Ấn Độ thời bấy giờ chia làm bốn giai cấp: Giai cấp Bà la môn (Brhmanes); Sát-đế-ly (Kastryas); Phệ-xá (Vaisyas); Thủ-đà-la (Suddra); Và 4 trào lưu tư tưởng là: Bà- la-môn giáo chính thống; Trào lưu tín ngưỡng tập tục; Trào lưu triết học; Trào lưu phản Phệ-đà. Người sáng lập ra đạo Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni - “Đấng giác ngộ, toàn trí, toàn năng”, tên Ngài là Gauthanma Shiddartha, sinh 8/4/623 TCN, trước chúa giáng sinh 544 năm tại Kapilavatsu. Theo Phật giáo Bắc truyền, năm 29 tuổi xuất gia, theo Phật giáo Nam truyền năm 19 tuổi xuất gia, 5 năm tầm sư học đạo, 6 năm tu khổ hạnh chốn rừng già, 49 ngày đêm ngồi Thiền định dưới cội Bồ Đề, khi sao mai vừa rạng Ngài đã chứng quả vị giải thoát, ngài đã đi chu du khắp xứ thuyết pháp độ sinh, trải qua 49 năm hoằng hóa, năm 80 tuổi Ngài nhập Niết Bàn. 2.1.2. Triết lý nhân sinh của Phật giáo Theo lý luận, triết lý nhân sinh của một học thuyết tư tưởng đều xuất phát từ thế giới quan, do thế giới quan chi phối. Mặt khác, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan còn chịu sự chi phối của tồn tại xã hội và các tác động của các hình thái ý thức xã hội khác. Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận cho chúng ta khi tiếp cập và nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo. Chúng ta có thể khái quát: nhân sinh quan Phật giáo là hệ thống quan điểm của Phật giáo về con người, đời sống của con người. Hệ thống quan điểm này chịu sự chi phối của thế giới quan, của tồn tại xã hội Ấn Độ cổ trung đại và bởi các ý thức xã hội khác. Trong phạm vi bài tiểu luận, tác giả sẽ phân tích làm rõ một số nội dung cơ bản của Phật giáo về nhân sinh quan trong đó tập trung phân tích, làm sáng tỏ quan điểm của Phật giáo về con người, đời sống con người. 27
  • 14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Trước hết, quan điểm của Phật giáo về con người Trái với quan điểm của kinh Vê đa, Upanisad, đạo Bàlamôn và các phái triết học đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo và chi phối vũ trụ. Phật giáo cho rằng con người không phải do thượng đế hay một đấng thiêng liêng nào sinh ra. Con người là một pháp đặc biệt của thế giới vạn pháp thể hiện trong thuyết danh sắc và thuyết Lục đại. Thuyết Danh sắc cho rằng, con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh thần. Thuyết Lục đại, con người được cấu tạo từ sáu yếu tố bao gồm: Địa (nghĩa là đất, xương thịt); Thuỷ (nước, máu, chất lỏng); Hoả (lửa, nhiệt khí); Phong (gió, hô hấp); Không (các lỗ trống trong cơ thể); Thức (ý thức tinh thần). Trong 6 yếu tố này thì 5 yếu đầu thuộc về vật chất, chỉ có một yếu tố cuối cùng thuộc về tinh thần. So với thuyết Danh sắc thì thuyết Lục đại xét cấu tạo con người nghiêng nặng về vật chất còn thuyết Danh sắc gần như có sự cân bằng, hài hoà giữa hai lĩnh vực vật chất và tinh thần. Trong khi đó, Thuyết Ngũ uẩn: xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố: Sắc (vật chất bao gồm địa, thuỷ, hoả, phong); Thụ (tình cảm, cảm giác con người); Tưởng (tưởng tượng, tri giác, ký ức); Hành (ý thức, những yếu tố khiến tâm hoạt động); Thức (ý thức theo nghĩa rộng gồm cả thụ, tưởng, hành). Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả. Con người gồm hai bộ phận: thể xác và linh hồn. Phần sinh lý - sắc uẩn là thân tướng, hình sắc được giới hạn trong không gian bằng xương, thịt, da được tạo thành từ bởi bốn yếu tố vật chất gọi là tứ đại: đất, nước, lửa, gió. Tứ đại tạo nên thân tướng, hình sắc của con người cụ thể là: đất tạo ra các phần cứng như xương, lông tóc, lục phủ, ngũ tạng; nước tạo ra chất lỏng như máu, mật, mồ hôi; lửa tạo nên than nhiệt; gió tạo thành hơi thở, hơi khí trong cơ thể. Phần tâm lí hay ý thức tinh thần gồm: thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn được biểu hiện bằng thất tình: ai (thương), ái (yêu), ố (ghét), hỷ (vui), nộ (giận), lạc 28
  • 15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 (sướng), dục (muốn). Phần tâm lí bao giờ cũng dựa vào phần sinh lí, hay nói cách khác không thể có tinh thần ý thức ngoài cơ thể vật chất. Con người thực chất chỉ là giả hợp của ngũ uẩn, khi ngũ uẩn kết hợp lại gọi là sinh khi ngũ uẩn tan ra gọi là diệt. Do đó không có cái ta, hay cái ta cũng chỉ là giả tướng không có thật ”, gọi là “nhân vô ngã” (nhân không). Con người được tạo thành từ Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể thường tự tại. Con người là sản vật, tự nhiên không có hình thái cố định của tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất trên thế giới nên dần hình thành khối vật chất thô kệch có sự phân biệt tính cách, mầu da. Phật giáo không cho rằng con người sau khi chết là hết, Phật giáo giải thích con người sau khi chết bằng thuyết Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi. Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ thống nhân duyên của nhau, cứ thế sinh sinh, diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng tận; thế giới là vô thuỷ vô chung, không có cái gì là trường tồn bất biến. Mọi cái đều biến đổi vận động không ngừng, không có cái vĩnh hằng; mọi vật đều tuân theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Con người cũng thuộc về thế giới hiện tượng. Thân xác con người được đề cập trong thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo. Khi một con người tồn tại tức là khi mang thân ngũ uẩn đều có ba hoạt động chính: hoạt động thông qua các hành vi, do hậu quả việc làm của ta, do hành động của thân thể ta gọi là “thân nghiệp”; còn những hậu quả do lời nói của ta, phát ngôn của ta thì được gọi là “khẩu nghiệp”; hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tư của ta gây nên thì được gọi là “ý nghiệp”. Cả ba hoạt động về thân-khẩu-ý đều thuộc hai phạm trù thiện ác. Theo luật nhân quả, tất cả các hoạt động về thân-khẩu-ý, thiện ác đó sẽ tạo ra nghiệp lực để báo ứng về sau (gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp), tức là gieo nhân, gieo nghiệp cho sự kết hợp ngũ uẩn mới. Một ngũ uẩn mới tập hợp tức là một con người mới được sinh ra, lại hoạt động, lại gieo nhân, gieo nghiệp chuẩn bị cho sự kết hợp của ngũ uẩn tiếp theo. Cứ như thế kéo con người vào vòng luân hồi sinh tử không ngừng không dứt từ đời này qua đời khác, kiếp này qua kiếp khác. 29
  • 16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Phật giáo cho rằng con người ở kiếp này phải chịu quả báo về những việc làm của họ ở kiếp trước. Con người hiện tại là quả của con người quá khứ nhưng đồng thời là nhân của con người tương lai. Với thuyết nhân quả, nghiệp-nghiệp báo, Phật giáo cho rằng không có một hành vi thiện ác nào của con người, dù là nhỏ bé, dù được bưng bít che đậy cũng không tránh khỏi quả báo về sau. Thứ hai, quan điểm Phật giáo về cuộc sông của con người Mục đích cuối cùng và tư tưởng chủ đạo có tính xuyên suốt trong toàn bộ học thuyết nhân sinh là tư tưởng giải thoát chúng sinh khỏi kiếp sống trầm luân đau khổ để đạt được sự giải thoát. Phật giáo bác bỏ Braham và Atman, nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân hồi Samsara và nghiệp Karma của Upanisad cho rằng, mọi vật mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác, trong quá trình biểu hiện sinh tử theo nghiệp nhân quả luân hồi. Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn chân lý tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người phải thực hiện. Đó là tứ diệu đế: Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Khổ đế - triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ. “Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển”. Có thể nói, quan niệm về “Khổ” đế nói lên bản chất của triết lý nhân sinh trong học thuyết Phật giáo. Quan niệm này mang tính tiêu cực, yếm thế, coi đời chỉ là ảo hoá tạm bợ do vô minh, con người không nhận thức được điều đó, do đó cứ lặn lội mãi trong biển sinh tử, luân hồi. Cuộc đời con người đầy dẫy nhưng nỗi khổ, nhưng không ai nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Tất cả nỗi khổ của con người được phản ánh trong lý thuyết: bát khổ bao gồm: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ. Đây là là sự cụ thể hoá, tỉ mỉ hơn về các nỗi khổ của chúng sinh ở trần thế. Sinh khổ: Con người khi sinh ra đã cất tiếng khóc chào đời; trước đó còn ở trong bụng mẹ thì chật chội, tăm tối; người mẹ mang thai thì vất vả, mệt nhọc, kém 30
  • 17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với người khác. Và khi con người có mặt trên đời đã là khổ. Lão khổ: Trong cuộc sống hàng ngày, con người muốn tồn tại được thì trước hết phải ăn, uống, mặc ở, sinh hoạt, đi lại …Muốn vậy, con người phải lao động hết sức vất vả, cực nhọc, tất bật trong công việc. Đó là về mặt vật chất, còn những nỗi khổ về tinh thần dày vò con người cũng không kém nỗi khổ về vật chất, nó làm cho con người suy kiệt, ốm yếu, già nua … Bệnh khổ: Con người đến lúc tuổi cao, thân thể hao mòn già yếu các giác quan, hoạt động kém; mắt mờ, chân chậm, tai điếc…dễ sinh bệnh tật gây đau ốm cho người bệnh và người thân xung quanh. Tử khổ: Đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế để lại nỗi sót thương vô hạn cho người thân, bè bạn. Ai cũng vậy, sợ phải xa lìa người thân, bè bạn, bởi cuộc sống có biết bao điều thú vị. Đó là nỗi khổ của con người. Ái biệt ly khổ: Nỗi khổ khi phải xa cách, chia ly người mình mến thương như vợ chồng, cha mẹ, anh em … Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt ly: Sống phải xa nhau đã khổ, nhưng người ở lại người đi vào thế giới khác thì đó là nỗi khổ tình thương, tuyệt vọng biết nhường nào. Oán tăng hộ khổ: Nỗi khổ vì sống cùng với người mà mình không hề yêu thích; ở chung những người như vậy giống như gai đâm vào mắt mà không làm gì được. Sở cầu bất đắc khổ: Là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước ao mà không đạt được, con người phải lao tâm, khổ tứ biết bao, mong có được ngày thành đạt; nếu điều đó không thành thì nỗi khổ ấy thật khủng khiếp dày vò, khiến con người tuyệt vọng… Ngũ thụ uẩn khổ: Gây ra bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm cho thân tâm phải chịu hết thảy những nỗi khổ. Thích Ca nói với chúng sinh: Già là khổ, bệnh khổ, chết khổ, cái gì của ta mà phải xa rời là khổ, cái gì không ưa thích mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ. Có thể nói, với học thuyết về “khổ đế” Phật giáo đã khái quát những nối khổ lớn nhất của đời người. Với lòng từ bi thương người của mình, Phật muốn chúng 31
  • 18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 sinh biết hết mọi nỗi khổ ở đời để khi gặp phải không làm cho tinh thần hoảng loạn, mà phải biết bình tĩnh suy xét tìm cách giải khổ, làm chủ được bản thân, vượt lên trên số phận. Điều này cho thấy, Phật giáo không hề trốn tránh cuộc sống trần gian, cũng như không tô hồng nó, mà đã dũng cảm nhìn vào hiện thực cuộc sống con người. Cùng với việc chỉ ra nỗi khổ của con người, Phật giáo cũng chỉ ra nhưng nguyên nhân cơ bản, điều này thể hiện trong thuyết Nhân đế (hay còn gọi là tập đế). Tập đế, nói đến sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Phật giáo cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó đồng thời khái quan nên mười hai nguyên nhân của nỗi khổ (thập nhị nhân duyên). Trong mười hai nguyên nhân, Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Vô minh là không sáng suốt, không nhận thức được thế giới, không thấy mọi sự vật đều là ảo giả, mà cứ cho là thực; không nhận thức được ngay chính bản thâm mình, cả thế giới khách quan lẫn bản thể chủ quan đều chỉ là vô thường vô ngã trong vòng luân hồi, trôi chảy bất tận, chính cái này dẫn đến lòng tham sống ở trong con người. Phật giáo nói đến đau khổ chủ yếu chỉ là tinh thần bức bách. Sự kết hợp giữa ái dục và vô minh xuất phát từ nguồn gốc của ba thứ mà Phật gọi là tam độc, đó là: Tham, sân, si. Tham, là biểu hiện sự tham lam của con người, xúi dục con người hành động để thoả mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con người không có giới hạn, đây là nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con người như chém giết, xâm hại lẫn nhau. Sân, là sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con người không hài lòng về điều gì đó, làm cho con người không kiểm soát hết hành động của mình (giận quá mất khôn); như thế cũng đem lại những điều khổ đau, không hay cho con người. Sách Phật ghi rằng, một đốm lửa giận có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức và một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn, cửa nghiệp chướng mở. 32
  • 19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Si, là sự si mê, lú lẫn, làm cho con người không phân biệt điều hay dở; điều đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi người. Nếu tham, sân nổi lên mà có trí sáng suốt sẽ ngăn chặn được tham, sân. Bên cạnh vô minh và ái dục, Phật giáo còn chỉ ra 10 nguyên nhân khác đó là: Duyên hành: là hành động có ý thức; ở đây đã có sự dao động của tâm, có mầm mống của nghiệp. Duyên thức: tâm thức từ chỗ cân bằng trong sáng đến dần mất cân bằng, tuỳ theo nghiệp mà tâm thức tìm đến các nhân duyên để hình thành cuộc đời khác. Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất tinh thần; với các loài hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, trầm sức, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Duyên lục nhập: quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp xúc với lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Duyên xúc: là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ. Duyên thụ: là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu, ghét, buồn, vui. Duyên ái: là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn. Duyên thủ: tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng tỏ có nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân. Duyên sinh: đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện hữu là tu sinh ra ở thế giới để làm người, hay súc sinh. Duyên lão tử: đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh - lão - bệnh - tử là kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu một vòng luân hồi mới. Cứ như thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử. Mười hai nhân duyên có quan hệ mật thiết với nhau, cái này làm nhân, làm duyên cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời làm nhân cho cái kia. 33
  • 20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Cùng với việc khẳng định cuộc đời là bể khổ, việc xác định thập nhị nhân duyên dẫn đến khổ, Phật giáo khẳng định nỗi khổ có thể tiêu diệt được, có thể chấm dứt khỏi vòng luân hồi với tư tưởng về Diệt đế. Phật giáo khuyên chúng sinh phải tu dưỡng thân tâm, đoạn trừ “vô minh”, để cho Phật tính bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước chúng sinh đến cõi niết bàn. Diệt đế nói lên thế giới của sự giải thoát, thế giới không còn khổ đau. Về con đường giải thoát bể khổ của Phật giáo thông qua thuyết Đạo đế tập trung trong tư tưởng về bát chính đạo thực chất là diệt trừ vô minh. Đây là con đường tương đối phổ biến, là môn pháp chính được đề cập đến nhiều nhất đến nỗi có người lầm tưởng đạo đế và bát chính đạo là một. Chính kiến: là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về tứ diệu đế, hiểu đúng sự vật khách quan. Người ta có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi hành động, tâm trí sáng suốt. Chính tư duy: sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành theo chính tư duy biết suy xét vô minh là nguyên nhân của khổ đau, tìm ra phương pháp tu luyện để thoát khổ cho mình và mọi người; đó là diệt trừ vô minh, tam độc. Chính ngữ: Lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong lời nói cụ thể; không nói dối, không tạo ra sự bất hoà giữa mọi người, không nòi lời ác dữ, không thừa lời vô ích. Người tu hành trước khi nói năng phải suy nghĩ tới người nghe, nói lời đoàn kết dịu hiền. Chính nghiệp: Đức Phật dạy chúng sinh rằng: Nếu là tà nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, thì phải cải tạo, cải tà quy chính, làm điều thiện tránh điều ác. Còn nếu là chính nghiệp việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho mọi người thì phải giữ gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Thân nghiệp là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; ý nghiệp là không tham dục, không nóng giận, không tà kiến. Chính mệnh: Lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con người; không tham lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính; sống chân 34
  • 21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 chính bằng nghề nghiệp chính đáng. Có thể nói đây là phong cách sinh hoạt lành mạnh giúp cho con người luôn thoải mái nhẹ nhàng. Chính tinh tiến: Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác; không quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải chủ động tích cực trong việc tìm kiếm, truyền bá chân lý của Phật. Chính niệm: Trong đầu óc con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng, ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường xuyên niệm Phật. Chính định: Sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý, tĩnh lặng suy tư về tứ diệu đế của vô ngã vô thường về nỗi khổ của con người, là cơ sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao. Với việc tập trung theo bát chính đạo con người sẽ tự ý thức, sửa mình từ bỏ mọi tội lỗi, tu thân tích đức như thế con người sẽ đạt tới sự hoàn thiện. Đây có thể coi là cơ sở, động lực để tạo ra sự yên bình, hạnh phúc không những trong xã hội hiện tại mà cả xã hội tương lai, bởi nhân nào quả ấy. Một lần nữa cho thấy, những giá trị nhân sinh sâu sắc của phật giáo được khẳng định. Đức Phật đã rung động trước nỗi khổ của chúng sinh. Từ đó mà đi tìm phương thuốc cứu giúp cho chúng sinh, tìm ra lối đi của sự tự do tuyệt đích, của hạnh phúc yên bình chính là con đường diệt khổ. Phật giáo lấy việc giải thoát đau khổ làm trọng tâm tư tưởng trong giáo lý của mình. Tinh thần triết lý nhân sinh mà Phật giáo đòi hỏi trách nhiệm về đạo đức làm người, không được làm ngơ trước nỗi khổ của người khác, phải toàn tâm toàn ý cứu khổ cho mọi người … Đó cũng là yêu cầu đối với chính mình, mình có thực hiện tốt thì mới hy vọng thoát khổ. Phật giáo không lấy giáo lý làm trọng, mà chỉ coi đó là phương tiện để đạt đến chân lý cuối cùng. Cái cốt của nó là sự thực hành của mỗi cá nhân đạt đến sự giác ngộ, tu thành đạo quả, chứ không phải nghe giảng để hiểu đạo. Mặc dù vậy, nhân sinh quan Phật giáo vẫn thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc - đó cũng là giá trị lớn nhất trong triết học Phật giáo. 2.2. Quan niệm của Phật giáo về chữ Hiếu 35
  • 22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Chữ Hiếu ở đây người ta thường hiểu là việc làm của người con biết ơn và báo ơn đối với bậc sinh thành dưỡng dục của mình là Cha và Mẹ. Theo Thiều Chửu - Hán Việt từ điển, Hiếu có 2 nghĩa: Một là: Hiếu thảo với cha mẹ, con thờ cha mẹ hết lòng gọi là Hiếu Hai là: Đồ tang phục gọi là Hiếu Trong Kinh Thi có câu: “Có Hiếu tức là có Phúc” Theo Phật Quang đại từ điển: Hiếu là lòng kính yêu và biết ơn cha mẹ. Hiếu còn gọi là hiếu thuận, hiếu dưỡng. Như vậy, Hiếu có nghĩa là: Nuôi dưỡng phụng sự cha mẹ một cách thuận thảo, vâng lời cha mẹ, làm theo những lời cha mẹ dạy. Đồng thời nên xem xét ý tứ của cha mẹ để làm người vui lòng. Trong cuộc sống, việc thờ cúng và những việc làm thể hiện sự tôn kính đối với tổ tiên cũng được gọi là Hiếu. Hơn nữa, Hiếu chỉ cho tang phục, người đang có tang mẹ hay cha khi qua đời, người con có hiếu trong ba năm phải mặc áo vải thô hay vải gai, những việc trang điểm đều bỏ cả... Đó chính là biểu hiện lòng thương tưởng đến cha mẹ mình. Điều này thể hiện tinh thần tri ân của người con hiếu thảo sống có đạo. Theo quan niệm xuất thế gian: Hiếu là hướng dẫn Cha mẹ sống đời đạo đức, thực hành bố thí, xa lánh con đường tham - sân - si để hướng đến ánh sáng trí tuệ giải thoát. Phật dạy “Hiếu xuất thế gian là cắt ái từ thân, thâm nhập vào vô vi chi lý, thượng thù võng cực chi ân, hạ tế tam đồ chi khổ”. Nghĩa là Hiếu hạnh của người xuất gia là cắt đứt tình thương trong lục thân quyến thuộc, xa lìa cha mẹ đi sâu vào lý vô vi, trên đền bốn ân, dưới cứu giúp ba đường. Trong các kinh điển đều nêu rõ bổn phận làm con phải biết hiếu dưỡng, hiếu hạnh, hiếu tâm và hiếu đạo với Cha mẹ. Hiếu dưỡng: Là cung phụng món ăn, vật lạ cho Cha mẹ, khi cha mẹ ốm phải lo thuốc thang đầy đủ. Hiếu hạnh: Là ta luôn giữ mình trong mọi hành động đừng để mọi người chê bai ta là con người xấu làm ảnh hưởng đến Cha mẹ. 36
  • 23. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Hiếu đạo: Là hướng dẫn Cha mẹ sống đời thánh thiện, an trú trong chính Pháp và biết quy y Tam Bảo. Bậc cổ đức có dạy: “Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phương thành tựu” nghĩa là cha mẹ được giải thoát lìa khỏi trần ai thì người con mới tròn hiếu đạo. Ở nước ta, văn hiến nước nhà có tới bốn ngàn năm lịch sử, với bao nhiêu thăng trầm và có sự tiếp biến văn hóa từ nhiều nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới; đặc biệt là sự ảnh hưởng từ văn hóa Nho giáo phương Bắc. Phật giáo cùng với hai nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam - một dân tộc với tinh thần yêu nước sâu sắc đã nghiễm nhiên chấp nhận truyền thống Hiếu đạo của Phật giáo. Phật giáo Việt Nam lấy ngày 15 tháng 7 âm lịch hàng năm làm ngày báo đền ân đức Cha Mẹ. Thực tế tinh thần hiếu đạo ngày của Phật giáo không chỉ đơn thuần là chỉ có một ngày Vu Lan, mà tinh thần đó hầu như được đề cập trong toàn bộ hệ thống giáo lý đạo đức của Phật giáo. Thật vậy, không có một nền văn hóa nào không đề cập và đề cao chữ “Hiếu”, chỉ có ít nhiều, cao thấp khác nhau. Ở phương Tây có “Ngày nhớ ơn mẹ” (Mother’s day) là ngày chủ nhật lần thứ hai của tháng 5 và “Ngày nhớ ơn cha” (Father’s day) nhằm ngày chủ nhật thứ ba của tháng 6. Ở Việt Nam ta ngày nhớ ơn Cha Mẹ của dân tộc được xem là ngày nhớ ơn Cha Mẹ của Phật giáo tức là ngày Vu Lan. Truyền thống uống nước nhớ nguồn: Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, đó là đặc điểm căn bản của giáo lý Phật giáo. Lòng từ bi xuất phát từ tình thương trong mối quan hệ nghĩa nặng tình sâu của con cái đối với Cha Mẹ, lan dần ra xã hội và trải rộng ra mỗi con người chúng ta. Tình cảm thiêng liêng, sâu xa nhất là tình yêu thương Cha Mẹ, nó đã ăn sâu vào tâm tư của mỗi con người từ muôn đời. Hòa thượng Thích Trí Quảng đã viết: Con người tồn tại trên cuộc đời đều có sự tương quan tương duyên với nhau gọi là lý nhân duyên, có ba mối tương quan. Một là: “Mối quan hệ và huyết thống giữa ta với Cha Mẹ, ông bà, tổ tiên đã có vô thủy kiếp, tức không xác định được khởi điểm xuất phát nhưng chắc chắn giữa mỗi người với ông bà tổ tiên dòng họ của mình vẫn có sự liên hệ hỗ tương cho đến ngày nay. Đó là sự liên hệ về tâm thức được truyền nối liên tục từ đời sang đời 37
  • 24. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 khác, gọi là nghiệp. Trong sắc thân hiện tại của ta, về tư duy hàm chứa tâm thức của ông bà, Cha Mẹ”. Hai là: Mối quan hệ giữa con người với xã hội. Ba là: “Mối quan hệ giữa con người với các bậc Bồ Tát” [5, tr. 4] Như vậy, ý thức trách nhiệm của người con là cảm nhận được mối quan hệ và ân đức của hai đấng sinh thành dưỡng dục, Cha Mẹ đã trải qua bao nhiêu năm tháng đêm ngày lo lắng, vất vả để nuôi ta khôn lớn thành người. Suốt cuộc đời Cha Mẹ tận tụy hy sinh cho con, chăm bẵm, nuôi nấng, cung cấp các món cần dùng, dạy dỗ con cách sống ở đời, làm cho con vui, không bao giờ xao lãng, nhớ và thương con như bóng theo hình. Công ơn sâu dày ấy làm sao chúng ta quên được. Trong Kinh Thi đề cập: Cha sinh ra ta, Mẹ nuôi ta. Hỡi ơi! Cha Mẹ sinh ta cực nhọc, muốn đáp đền công ơn Cha Mẹ như với lên trời cao chẳng cùng. Cha sinh ta, Mẹ nuôi ta, Nhớ thươngCha Mẹ xót xa tấm lòng Thương con cực khổ ẵm bồng, Trời cao vời vợi khó mong đáp đền Khi nói đến mùa thu tức là nói đến mùa Vu Lan hay là “Mùa Báo Hiếu”, chúng ta đều liên tưởng đến hình ảnh Ngài Mục Kiền Liên, nguyện noi theo gương hiếu hạnh của Ngài để đền đáp công ơn Cha Mẹ. Đó là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời của dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn nhớ đến công ơn sự nghiệp ngàn xưa của ông bà tổ tiên. Truyền thống từ nghìn xưa đó đã được trao truyền, giữ vững từ thế hệ này sang thế hệ khác cho đến ngày nay và mãi ngàn sau. Nội dung được đề cập trong “Chữ Hiếu trong đạo Phật”. Vậy Hiếu là gì? Hiếu chính là sự biểu hiện đức tính cao thượng của con người trong hầu hết các nền văn hóa của nhân loại. Đó là thái độ sống bày tỏ sự biết ơn, nhớ ơn công đức sinh thành dưỡng dục đối với ông bà, Cha Mẹ hiện tại và trong vô lượng kiếp. Hiếu cũng chính là sợi dây thân ái nối kết giữa mọi người, gia đình, thân tộc và tình dân tộc. Kinh Phạm Võng đã nâng cao: “Hiếu thuận là phép chí đạo cho nên lấy hiếu làm giới”. Kinh Mạ Ý dạy: “Giữ giới chính là để hiếu thuận báo ơn Cha Mẹ” [45, tr. 37]. 38
  • 25. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Như vậy, nói đến hiếu là nói đến sự đáp đền ân nghĩa là một cách nói. Thực sự, nếu cuộc sống và con người là thiêng liêng vô giá thì hiếu đạo cũng thế, là nghĩa sống cao đẹp, không phải chỉ là một mối tương quan xã hội có tính cách ước lệ như luật pháp ấn định. Do các nền văn hóa khác nhau nên quan niệm về chữ hiếu và hình thức báo hiếu cũng khác nhau. Tác giả Nguyễn Thế Đăng quan niệm rằng: “Hiếu là phong tục tốt đẹp, từ việc giới hạn trong một gia đình đã trở thành thái độ sống đối với con người và thế giới. Thực hành thái độ sống ấy, con người dần dần trở nên toàn diện và toàn thiện” [24, tr. 32]. Trong Kinh có dạy: Hiếu là trên hết, hiếu là tất cả, là Mẹ của tất cả công đức lành, Mẹ của tất cả những phương pháp tu hành để thành Phật. Chữ hiếu trong đạo Phật bao gồm: Hiếu đạo (Là hướng dẫn Cha Mẹ sống đời Thánh thiện, an trú trong chính pháp và biết quy y Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật, làm lành, lánh dữ, giúp Cha Mẹ được giải thoát thì người con đó mới là hiếu đạo) - Hiếu tâm (tâm luôn luôn nhớ đến Cha Mẹ dù bất cứ ở nơi đâu) - Hiếu dưỡng (là cung phụng thực phẩm cho Cha Mẹ, khi Cha Mẹ bệnh đau phải thuốc thang đầy đủ) - Hiếu hạnh (Luôn giữ mình trong mọi hành động khi hầu hạ Cha Mẹ, hết lòng cung kính lễ phép. Khi nói chuyện với Cha Mẹ lựa lời mà nói cho phải đạo làm con, không được tỏ ra xem thường và bất hiếu với Cha Mẹ) v.v…. Hòa Thượng Thích Thanh Từ đã nói: “Hiếu thảo là chất liệu thiết yếu trong xã hội Việt Nam, vì thế trong tinh thần dân tộc Việt Nam, ai cũng đặt chữ hiếu lên trên tất cả” [55, tr. 41]. Hiếu được đặt thành Kinh, đủ thấy tính chất của hiếu vô cùng quan trọng, hiếu không còn hạn hẹp trong vấn đề “tận tâm kính dưỡng Phụ Mẫu”. Hiếu đối với Cha Mẹ khi còn sống, cũng như lúc qua đời. Bổn phận làm con phải cung kính như thế nào? Tức là hết lòng yêu kính và nuôi dưỡng Cha và Mẹ. Theo tinh thần Phật giáo, hiếu thảo với Cha Mẹ hiện đời cũng như Cha Mẹ trong quá khứ, đúng nghĩa nhất là chúng ta phải biết kính trọng, vâng lời Cha Mẹ dạy, phụng dưỡng Cha Mẹ, sớm thăm tối viếng khi Cha Mẹ đau ốm. Nếu Cha Mẹ 39
  • 26. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 chưa quay về với chính pháp, quan trọng nhất phải tìm cách hướng dẫn Cha Mẹ quy y Tam Bảo, trở thành người Phật tử chân chính. Trong sách Đạo đức người xuất gia, tác giả Nguyên Hùng có viết: “Muốn báo ân đức dưỡng dục cao dày của Cha Mẹ, việc nhỏ thì tận tâm tận lực phụng thờ Cha Mẹ, khá hơn một chút thì làm cho Cha Mẹ được vui, còn xa hơn nữa thì làm cho Cha Mẹ phát khởi tâm Bồ đề, hướng dẫn tâm thức của Cha Mẹ đi vào chính pháp” [9, tr. 85 - 86]. Đức Phật tán thán công ơn Cha Mẹ, khuyên nhớ ơn và đền ơn Đối với ơn Cha: Tính Cha thì nghiêm nghị, nên công Cha ví như núi cao sừng sững, non cao vời vợi, suốt đời vất vả vì con, chạy ngược chạy xuôi trên vạn nẻo đường đời. Người Cha thân thương tuy đã già nhưng mỗi buổi sáng vẫn đi vào các công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, đồn điền hay các cơ quan v.v… làm việc bằng sức lao động của chính mình, đổ những giọt mồ hôi để đổi lấy bát cơm, tấm áo nuôi con. Cha đã không ngại nắng mưa, sương gió, chịu bao nỗi đau thương. Chỉ mong con khôn lớn và có ích cho đời. Cha xem con là tinh hoa của mình, là sự kế thừa thiêng liêng, là tim máu mật thiết muôn đời. Vì vậy, cho dù cuộc đời có lắm chông gai thử thách, bao nhiêu mồ hôi nước mắt, bao nỗi đau thương, bao ngày tháng gian truân, Cha vẫn vững bước trên mọi nẻo đường để dìu dắt, chăm sóc con thành người hữu dụng, khôn ngoan, không thua chúng bạn, không hổ thẹn với đời. Nếu như chúng ta bất hạnh sớm mất Mẹ thì Cha âm thầm lặng lẽ, đảm đương mọi việc để nuôi con. Cha ngồi yên lặng như một pho tượng mà nhìn vào di ảnh Mẹ, từng hơi thở ra vào, với đôi mắt đăm chiêu vào cõi xa xăm nào đó. Cha vừa làm Mẹ vừa làm Cha, như gà trống nuôi con, vất vả, lo toan mọi việc. Người Cha già hằng ngày sớm hôm làm lụng vất vả, kiếm tiền nuôi con, chịu biết bao gian truân khổ nhọc. Dù cho Cha có ốm đau tiều tụy thế nào đi nữa, Cha vẫn có một sức mạnh phi thường để chịu đựng những cam go thử thách trong cuộc đời để che chở cho con khôn lớn. Mỗi bước chân con đi, đều có sự theo dõi dìu dắt 40
  • 27. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 của Cha. Cha là nơi nương tựa duy nhất, Cha là ánh sáng chói chang sởi ấm lòng con khi băng giá. Cha là trời cao lồng lộng, Cha là điểm tựa, là bóng mát che chở cho con. Thiếu tình thương của Cha con khó lớn khôn được. Thế nên, Tiểu Viên đã diễn tả: Tài năng chân chất hiền lành Nghiêm thân tự lập thơm danh một thời Đơn sơ bình dị thế thôi Cha cho con cả khung trời nhớ thương Câu chuyện vua A Xà Thế cho chúng ta biết tình thương Vua cha Bình Sa Vương đối với A Xà Thế như thế nào? Vì một chút danh vọng cao hứng, nghe lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa mà ông chiếm đoạt ngôi Vua, giam Cha trong ngục tối, ra lệnh không ai được phép viếng thăm, ngoại trừ Mẹ là hoàng hậu Vi Đề Hy. Mỗi lần vào thăm chồng, bà giấu thức ăn trong túi, trong búi tóc mang cho chồng. Hơn thế nữa, nỗi đau đớn trước khi vào thăm, bà phải tắm sạch sẽ, xoa vào thân thể bà một thứ đồ ăn làm bằng mật ong, đường và sữa để cho Vua dùng. Rủi thay, những việc làm thương tâm đó đều bị A Xà Thế phát hiện nên cấm hẳn Mẹ mình không được vào thăm vua Cha nhưng đến giờ sắp chết, Vua Bình Sa Vương vẫn thương con, nghĩ rằng con mình đã ăn năn hối hận nên cho thợ đến cạo tóc, đón mình về cung. Ngược lại người thợ cạo đến gọt gót chân Vua, xát muối hơ dưới than nóng để kết liễu cuộc đời Vua Bình Sa Vương. Cùng lúc ấy, tin vợ A Xà Thế hạ sinh một hoàng nam, nỗi vui mừng của ông không sao tả siết. A Xà Thế lần đầu tiên cảm nhận được tình thương của một người Cha chớm nở trong lòng, như dòng máu trong người ông chảy rần rật qua từng khớp xương, tế bào. Ông vội chạy đi tìm gặp Mẹ và thưa rằng: “Thưa Mẹ khi con còn nhỏ, Phụ hoàng có thương con không?” Bà liền kể rằng: Lúc Mẹ mang thai con, bỗng thèm nút vài giọt máu trong bàn tay của Cha con, mẹ không dám nói nên mỗi ngày một xanh xao tiều tụy, sau cũng đành thú thật. Khi nghe như vậy, Cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho Mẹ nút máu. Các vị tiên tri bảo rằng con là kẻ sẽ hại Cha sau này. Có lần Mẹ đã định giết con ngay trong bụng nhưng Cha con biết nên không 41
  • 28. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 cho. Rồi một hôm con có cái mụt nhọt trên đầu ngón tay, đau nhức khóc suốt đêm ngày. Cha con đang lâm triều nhưng nghe tiếng khóc của con không chịu nổi, chạy vào bồng con trong lòng. Cha đã không ngần ngại, ngậm ngón tay con trong miệng, nhẹ mút cho con đỡ đau. Lâu ngày mụt nhọt ấy bị bể, sợ lấy ngón tay ra con sẽ đau nên Cha con nuốt cả máu lẫn mủ vào bụng. Khi nghe qua câu chuyện, ông sực nhớ đến Cha và hô to: Các người đâu? Hãy lập tức thả người Cha yêu quý của ta ra. Nhưng không kịp nữa, vua Bình Sa Vương đã hóa ra người thiên cổ. A Xà Thế rất xúc động, đau đớn cùng tột vì ông là kẻ phạm trọng tội ngũ nghịch giết Cha. Cha là bóng cả ngã che con Là cả tình thương chẳng xói mòn Là cả cuộc đời vô biên quá Mang nặng tình Cha như nước non Tình thương của Cha luôn luôn giấu kín trong lòng và đôi khi tình thương ấy còn tiềm ẩn trong lời nói, cử chỉ hành động mỗi khi dạy con. Tình thương của Cha như cây đại thụ đứng giữa nắng mưa che chở, định hướng cho con bước vào cuộc đời. Huyền Lan đã cảm nhận về tình Cha ấy. Cha cho con một cuộc đời Mối tình sâu kín trong lời dạy khuyên Lòng Cha nghiêm nghị thiêng liêng Cho con lẽ sống giữa miền trần gian Tình cảm của người Cha ít biểu lộ ra bên ngoài bởi bản chất cứng rắn, nghiêm nghị, luôn sống bằng lý trí và trầm lặng, không phải như người Mẹ. Nếu vì hoàn cảnh nào đó, hay vì cuộc sống gia đình mà người con phải đi xa để tìm phương kế sinh nhai và mỗi lần đi xa về, người Mẹ vì thương và nhớ con lâu ngày, sẽ vội vã ôm chầm lấy con mà khóc nức nở. Nhưng người Cha không bộc lộ những tình cảm như vậy, chỉ đứng nhìn con thôi, không phải là không thương con, có người Cha nào mà không thương nhớ con mình, nhưng chỉ thương con trong âm thầm lặng lẽ, chỉ cảm nhận bằng ánh mắt, tâm hồn. 42
  • 29. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Chính vì thế, Mặc Phương Tử đã viết: Ngước nhìn lên ngọn non xanh Mắt Cha còn đọng long lanh sao trời Ngàn xưa ngọc vẫn không lời Mà sao vẫn đẹp sáng mười phương mây Nghĩa là viên ngọc thì không nói được lời nào nhưng nó vẫn tỏa sáng khắp nơi. Viên ngọc ở đây chỉ cho Cha chúng ta. Như đã nói, bản chất người Cha trầm lặng giống như nước nơi nào không sóng, nơi đó chính là chỗ sâu nhất. Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng tuyệt hảo nhất là trái tim người Mẹ. Một trong số những kỳ quan tuyệt hảo nhất của vũ trụ, bên cạnh trái tim người Mẹ còn có cả trái tim người Cha. Con có Cha như nhà có nóc Con không Cha như nòng nọc đứt đuôi Vì vậy, nếu mất Cha thì người con trong những ngày tháng ấy thật bất hạnh, đau thương, bơ vơ, lạc lõng. Khi đó mới cảm nghe trong tiềm thức hiện về những ân tình Cha. Đối với nghĩa Mẹ: Khi nói đến tình Mẹ thì quả thật trên đời này không có thứ tình nào đậm đà thiêng liêng bằng thứ tình ấy, nó đã có trong ta từ thuở tượng hình, đến với ta qua hơi ấm thịt da, qua bàn tay trìu mến, qua dòng sữa bổ dưỡng, qua giọng hát ngọt ngào, qua lời ru êm dịu của Mẹ. Mẹ là biển cả trong đại dương vô cùng tận, con nhờ biển mà tình thương mở rộng đến muôn loài vạn vật. Dù con ở tận phương trời nào vẫn luôn luôn nhớ về quê mẹ. Mẹ là quê hương, mẹ là tình thương rộng lớn, người nào không có quê hương cũng như người đó không có mẹ, trở nên lạc lõng bơ vơ giữa chợ đời muôn ngả. Trong những tháng ngày thơ ấu hồn nhiên, mẹ sưởi ấm cho ta bằng tình thương vô bờ bến, nâng đỡ và tập cho ta những bước đi chập chững đầu tiên, công ơn ấy làm sao con quên được, luôn mãi in sâu trong tâm trí của người con hiếu hạnh. Bởi vậy, trong nhân gian đã dùng rất nhiều biểu tượng tuy bình dị khiêm nhường nhưng rất cao quý để nói về Mẹ, lời hát ru của Mẹ lúc con còn thơ bé nồng 43
  • 30. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 nàn, ngon ngọt như chuối ba hương, như xôi nếp mật, như đường mía lau. Trong Từ Quang Thi Tập, Chí Kiên đã viết: Mẹ già như chuối ba hương Như xôi nếp mật như đường mía lau Thơm tho thấm thía ngọt ngào Thiết tha sâu đậm không bao giờ nhòa Mẹ là suối nguồn yêu thương, là sông sâu biển rộng vô bờ bến, là trời cao thẳm. Mẹ là tình yêu muôn thuở của cuộc đời con. Mẹ chính là hương vị ngọt ngào, là dòng suối bất tận của thế nhân, là khung trời đẹp nhất của tuổi thơ, người Mẹ chín tháng cưu mang nặng nhọc, bên ướt Mẹ nằm, bên ráo con lăn, lúc con ốm đau Mẹ hiền thức trắng năm canh, không chợp mắt để theo dõi từng hơi thở, canh từng giấc ngủ cho con, khi con khỏe mạnh Mẹ vui mừng khôn tả, con buồn thì Mẹ cũng buồn theo, lòng mẹ như cung đàn muôn điệu, lúc nào cũng rung lên theo nhịp điệu của con. Từ khi con cất tiếng khóc chào đời được Mẹ nâng niu bồng ẵm thao thức suốt đêm, chăm sóc từng miếng ăn giấc ngủ, Mẹ đã nuôi dưỡng ấp ủ con bằng cả tinh thần và thể chất của mình, với sự chia sẻ trách nhiệm ân cần dạy bảo của người Cha, Mẹ đã truyền cho con những dòng sữa ngọt ngào với trọn tình yêu thương đã mớm cơm cho con, với tâm tư trìu mến, cho con từng cử chỉ âu yếm, từng ánh mắt khích lệ, cho con những lời ru tình người, thấm vào tâm hồn trong trắng từ thuở con còn nằm trong nôi. Trong kinh Mục Liên Sám Pháp, dịch giả Phúc Tuệ có ghi: “Công ơn của Mẹ làm sao kể hết từ khi mang thai, sinh con ra bú mớm ẵm bồng, đêm ngày lo lắng săn sóc từng miếng ăn, nuôi nấng chúng ta từ lúc thơ bé đến khi thành người khôn ngoan, chịu đựng bao nhiêu cực nhọc” [54, tr. 129]. Tình Mẹ thương con, không biết lấy gì để so sánh cho cân xứng. Từ khi con nhập thai trải qua chín tháng cưu mang, Mẹ đi đứng nằm ngồi cẩn thận, chịu trăm điều khổ sở, đến giờ sắp sinh con mà khó khăn Mẹ chỉ cầu mong cho đứa con của 44
  • 31. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Mẹ sắp sinh được hoàn hảo, đầy đủ lục căn. Nếu sinh con được bình an Mẹ vui sướng như người nghèo gặp được ngọc báu. Người Mẹ tảo tần sớm hôm với bao sương gió, lam lũ chợ đời, đêm ngày vất vả, buôn tảo bán tần mong kiếm đồng tiền để nuôi con, cho dù chúng ta dùng văn tự và ngôn ngữ để diễn tả tình mẹ thế nào đi chăng nữa cũng không thể đủ được, thế nên thi sĩ Vũ Hoàng Chương cảm nhận được điều đó. Ngôn ngữ trần gian là túi rách Đựng sao đầy hai tiếng Mẹ ơi! Văn tự là chiếc xe mòn cọc cạch Đường về quê Mẹ ngàn trùng xa xôi Thật vậy, ngôn ngữ không diễn tả và gói ghém được hai tiếng “Mẹ ơi”, mỗi khi chúng ta đau khổ lại trở về nương tựa Mẹ. Mẹ là người an ủi và làm giảm bớt nỗi đau buồn ấy. Còn văn tự chỉ giống như chiếc xe mòn quá cũ mà đường về quê Mẹ xa xôi ngàn trùng, khó có thể đếm được. Thật là hạnh phúc biết bao khi chúng ta đang sống bên Mẹ. May mắn thay cho chúng ta khi còn Mẹ. Sung sướng nhỉ, những người còn Mẹ Còn Mẹ con còn cả đất trời 2.2.1. Chữ Hiếu trong Kinh điển Phật giáo Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến hiếu hạnh, lợi ích của hiếu hạnh và làm thế nào để báo đáp hiếu hạnh có hiệu quả cao và công đức lớn. Các kinh điển Phật giáo dạy về hiếu hạnh như sau: Kinh Vu-lan-bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên, cứu thoát mẹ ra khỏi cảnh giới u minh, nhờ vào tập thể của Tăng đoàn và các vị A-la-hán. Kinh Báo Ân Cha mẹ nói rõ công lao sinh thành, nuôi dưỡng khó khăn của Cha mẹ, và theo đó dạy cách báo đáp công ơn trời biển đó. Còn nhiều kinh sách khác đề cập đến chữ hiếu ở góc độ này hay góc độ khác. Có thể nói, chữ hiếu bàn bạc khắp kinh điển Phật giáo. Khi đọc kinh Phật giáo là để trở thành người con hiếu thảo theo tinh thần lời Phật dạy, người con hiếu là người 45
  • 32. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 có thể thành tựu nhiều hạnh lành khác, vì hiếu là nền tảng của muôn hạnh lành, là cơ sở của nhân thừa, là nhịp cầu giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi. Biết ơn và đền ơn cha mẹ là hạnh hiếu đáng khen: Trước nhất kinh điển Phật giáo khẳng định rằng người biết ơn và đền ơn Cha mẹ là một bậc chân nhân, là người sống gương mẫu ở đời. Một người con được gọi là con hiếu thảo phải là một con người như vậy: "Ðối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơn và đền ơn đúng pháp” [11, tr. 157]. Làm con mà không biết ơn Cha mẹ hoặc biết ơn mà không lo đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ là người con bất hiếu. Người như vậy sẽ bị xã hội lên án, đời sống đạo đức sẽ bị suy giảm, và đời sống về sau sẽ bị đọa: "Ai thành tựu thân làm ác với Cha mẹ, lời nói ác đối với Cha mẹ, ý nghĩ ác đối với Cha mẹ; không biết ơn, không trả ơn, sẽ tương xứng rơi vào địa ngục và hiện đời sẽ bị đau khổ" [20, tr. 637]. Trong kinh Tương Ưng - Đức Phật cũng nói đến vị trí của người con hiếu thảo là vô song và hơn hết các loài động vật khác. Sự vô song này được Đức Phật sánh ví với sự vô song của Phật so với các loài hai chân: “Giữa các loài hai chân Chánh giác là tối thắng Trong các loài con cái Hiếu thuận là tối thắng” [22, tr.8] Cha mẹ phải vất vả nuôi nấng, dưỡng dục con, cho ăn học, lập gia thất, chạy thầy lo thuốc khi con đau ốm, chẳng quản tấm thân lao khổ. Những đoạn kinh dưới đây cho thấy công lao dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái: Cha mẹ dạy điều lễ nghĩa, cho con ăn học, giới thiệu nghề nghiệp, đưa đón đi về, cần lao chăm chút, chẳng hề kể công: Trái nắng trở trời, tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, chạy thầy lo thuốc, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò võ, bệnh con có khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con khôn lớn, con thảo con hiền. 46
  • 33. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Mục Liên Sám Pháp cũng nêu ra tiêu chí giáo dục chính pháp cho con như sau: “Khi con lớn khôn, hiểu biết việc đời, hướng đạo cho con, hoặc cho xuất gia, tu học đạo pháp, trở thành giải thoát. Ân đức như thế thật khó đáp đền” [41, tr. 127]. Trong rất nhiều kinh Đức Phật luôn luôn giáo dục mọi người không nên chỉ vì lý do phụng dưỡng cha mẹ mà tác tạo các nghiệp phi pháp, bất chính, tổn hại mình và người. Ðức Phật cũng thường nhắc đi nhắc lại rằng sự hiếu kính đúng nghĩa có giá trị, có an lạc phải là sự hiếu kính trên cơ sở của các hành vi và nghề nghiệp chân chính, phù hợp với luật pháp xã hội. Như vậy, hiếu thảo trong đạo Phật không chỉ đơn thuần đáp ứng cho Cha mẹ đời sống vật chất, tiền bạc, sự cung phụng và vâng lời. Hiếu trong Phật giáo được đặt vào trong mục tiêu hướng đến đời sống đạo đức và trí tuệ của Cha mẹ và bản thân. Hiếu như vậy thật sự là một thiện pháp, một sự giới thiệu, một sự tương duyên, một thiện tri thức để Cha mẹ và con cái cùng bước đi trên con đường chân thiện mỹ, an lạc và hạnh phúc trong chính pháp của Đức Phật. Như vậy, hiếu phải được thực hiện trong ánh sáng chân lý của Ngài trên nền tảng thánh đạo, trên cơ sở của đạo đức, thiền định và trí tuệ. Ðây là cách trang bị cho Cha mẹ đầy đủ Giới - Định - Tuệ để cùng hướng đến giải thoát, giác ngộ. Nói tóm lại, hiếu trong Kinh điển Phật giáo phải thể hiện trọn vẹn cả hai phương diện hiếu dưỡng vật chất và hiếu dưỡng tinh thần. Ðể hiếu dưỡng Cha mẹ về vật chất, người con phải cúc cung tận tụy nuôi nấng, chăm sóc, tôn kính Cha mẹ đúng pháp, phục vụ Cha mẹ bằng mồ hôi và tài sản có được từ nếp sống lành mạnh, chân chính, làm cho Cha mẹ sống an vui, thoải mái với những tình cảm tốt đẹp nhất. Ðể hiếu dưỡng Cha mẹ về phương diện tinh thần, người con trước hết phải tự trau giồi tốt bản thân mình, làm tất cả những gì tốt đẹp nhất, xa lánh những điều xấu xa, tội lỗi, đem tiếng thơm về cho gia đình, để cho Cha mẹ có thể tự hào và hãnh diện với mọi người. Kế đến nếu Cha mẹ chưa biết Tam bảo thì phải khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về quy y và sống dưới ánh sáng của chính pháp, trau dồi chính kiến, đức hạnh chân chính, làm hành trang cho một đời sống an lạc và hạnh phúc hiện tại và về sau. Nội dung hiếu dưỡng Cha mẹ về đời sống tinh thần chính là mục tiêu giáo 47
  • 34. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 dục của Đức Phật. Ðây chính là điểm vượt trội của Phật giáo so với ca dao Việt Nam cũng như chữ hiếu trong các tôn giáo và học thuyết khác từ trước đến giờ. Chữ hiếu trong Phật giáo xây dựng chính yếu trên nền tảng lợi ích thiết thực hiện tại và lợi ích an lạc giải thoát. Chữ hiếu như vậy thật chất đã trở thành một phương tiện thể hiện hành "lợi hành và đồng sự" cùng Cha mẹ kết làm thiện tri thức, làm pháp lữ, trên con đường thực hành chính pháp của Đức Phật, tại đây và bây giờ. Hiếu như vậy đã trở thành một phương tiện của đạo đức và giải thoát cho mình và người. 2.2.2. Lễ Vu lan của Phật giáo Nói đến mùa Vu Lan chính là nói đến truyền thống báo hiếu, phụng thờ Cha Mẹ, ông bà tổ tiên của con cái. Lễ hội Vu Lan báo hiếu sẽ đem lại một nếp sống hạnh phúc và an lạc cho mình, cho mọi người. Đây cũng chính là lễ hội hết sức có ý nghĩa, đầy giá trị văn hóa tình người. Có thể nói lễ hội Vu Lan không chỉ dành riêng cho người nào theo Phật giáo mà còn là một lễ hội chung cho tất cả một dân tộc hướng về ngày báo ân. Lễ Vu Lan là dịp tốt để người Phật tử phát tâm cúng dàng Tam Bảo, làm việc nhận từ, phóng sinh loài vật, dạy chúng ta ý thức độ lượng bao dung, giúp đỡ người khác hướng dẫn đến con đường đạo đức trong tinh thần vô vị lợi. Ngoài ra, lễ Vu Lan còn là dịp may cho những ai biết phát tâm lành, làm các việc công đức để hồi hướng cho tất cả vạn loại sinh linh đang chịu đau khổ dưới địa ngục. Trong đó có những thân nhân như ông bà, Cha Mẹ, vợ chồng, con cái chúng ta từ vô lượng kiếp đều được lãnh nhận phần công đức. Lễ hội Vu Lan ngày nay đã trở thành lễ hội báo hiếu của Phật giáo, đặc biệt đã trở thành lễ hội văn hóa dân tộc, nhân loại. Lễ hội Vu Lan có nhiều giá trị đạo đức cần được phát huy để cho sự sống của con người hôm nay và mãi mãi ngàn sau thật sự lợi ích an lạc trong chính pháp. Kinh Vu Lan được xem như một bức thông điệp hiếu kính Cha Mẹ thì mùa Vu Lan Bồn là mùa tượng trưng của đạo hiếu trong nhà Phật. Chính vì vậy, mùa Vu Lan đã trở thành mùa báo ân, báo hiếu đối với người con Phật. Lễ hội Vu Lan là lễ hội của những người con hiếu thảo đối với công ơn trời biển của Cha Mẹ. 48
  • 35. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Hòa thượng Thích Thiện Siêu đã viết: “Lễ Vu Lan là mùa báo hiếu của hàng Phật tử theo truyền thống Phật giáo. Chủ tâm của sự báo hiếu trong mùa Vu Lan này là cầu nguyện cho Cha Mẹ, tổ tiên, ân nhân của chúng ta với lời nguyện cầu cho cả Cha Mẹ hiện tại,Cha Mẹ nhiều đời và cửu huyền thất tổ” [57, tr. 16]. Lễ hội Vu Lan Bồn viết tắt là lễ Vu Lan. Vì vậy, Vu Lan viết đầy đủ là Vu Lan Bồn mà người Trung Quốc dịch là Ullambana, “Vu Lan Bồn, phiên âm theo tiếng Phạn là: “Giải đảo huyền”, nghĩa đen là cởi trói người bị treo ngược; nghĩa bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề như đang bị treo ngược” [35, tr. 237]. Mùa vu Lan nhắc nhở người con hiếu hạnh: Trong cuộc sống hiện tại, có nhiều trường hợp con cái không làm tròn hiếu đạo với Cha Mẹ, đến khi Cha Mẹ chết rồi, làm đám tang thật lớn, giết hại bò, heo để cúng bái, mời xóm giềng ăn nhậu say sưa. Thật đúng với câu: Lúc sống thì chẳng cho ăn Đến khi thác xuống làm văn tế ruồi Ngày chôn cất Cha Mẹ thì khóc lóc thảm thiết, kể lể nhiều điều vô ích, rồi thêm bài điếu văn lâm ly bi đát tán thán công ơn trời biển của Cha Mẹ, để cho mọi người thấy mình là người con có hiếu. Như vậy, theo quan điểm của Phật giáo, báo hiếu Cha Mẹ như thế nào cho đúng nghĩa? Trước hết, lòng hiếu thảo phải được thể hiện bằng lòng thương kính, biết ơn đến Cha Mẹ. Lòng thương kính và biết ơn này phải được thể hiện qua sự phụng dưỡng chăm sóc khi Cha Mẹ còn sống và sau khi Cha Mẹ qua đời, lòng hiếu thảo không bao giờ được thể hiện bằng hình thức cúng bái rườm rà. Người con hiếu thảo không khóc than, kể lể thảm thiết, phải giữ tâm thanh tịnh, chí thành niệm Phật, nguyện cầu cho Cha Mẹ được vãng sinh cực lạc. Không phải đợi mùa Vu Lan về chúng ta mới báo hiếu công ơn Cha Mẹ mà ngay trong cuộc sống hiện tại, với ý thức trách nhiệm, người con phải phụng dưỡng thật chu đáo, làm Cha Mẹ vui lòng và hướng dẫn Cha Mẹ quay về con đường đạo đức thiện lành. Đó là một nếp sống tương đối đầy đủ, có thể đền đáp được công ơn Cha Mẹ phần nào trong muôn một, để khi Cha Mẹ qua đời không còn tiếc nuối. Tất cả 49
  • 36. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 chúng ta đang hiện diện trong cuộc đời, phải dành những giây phút để tưởng niệm về ân đức Cha Mẹ. Cho dù Cha Mẹ chúng ta còn hay mất phải biết nhớ ơn và đền ơn. Ngày xưa, chúng ta biết bao lần làm khổ Mẹ Cha. Giờ đây, chúng ta hãy lạy Mẹ lạy Cha để tỏ lòng hối cải những sai lầm ấy. Chúng ta chắp hai tay lên trán, quỳ dưới chân Mẹ và Cha để tỏ lòng tôn kính, cầu xin Cha Mẹ tha thứ những lỗi lầm vụng dại của con. Xin Cha Mẹ nhận lạy lòng con hiếu Đã bao lần làm Cha khổ ngày xưa Đã bao lần làm Mẹ khóc như mưa Bao nhiêu lạy cũng chẳng vừa ơn ấy Người con hiếu thảo khi đã mất Cha Mẹ thì tình cảm thắm thiết đậm đà luôn mãi vấn vương trong tâm trí. Sơn Cư đã thể hiện một tấm lòng hiếu đạo, đối với ân đức sâu dày của hai đấng sinh thành. Đây bát cơm đầy nặng ước mong Mẹ ơi! đây ngọc với đây lòng Đây tình còn đọng trong tha thiết Ơn nghĩa sinh thành chưa trả xong Ngày xưa, Thầy Tử Lộ đổi gạo mướn để nuôi Mẹ, đến lúc thi đỗ làm quan thì Mẹ không còn nữa nên than rằng: Thà ta đổi gạo mướn để nuôi Mẹ còn hơn nay ta được vinh hiển mà không còn Mẹ để phụng dưỡng. Hiếu còn được xem như bổn phận không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Là người con Phật phải luôn luôn nhớ đến công ơn sâu dày của cha mẹ, bằng sự hiếu dưỡng vật chất và tinh thần. Vì “nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ” và “mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha”. Chúng ta phải có ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của người con hiếu hạnh đối với công ơn Cha Mẹ trong đời sống hiện tại và tương lai. Theo quan điểm Phật giáo, nếu người nào hiếu với Cha Mẹ, anh em huyết thống thì người đó chắc chắn có tình yêu thương trong nhiều mối quan hệ xã hội, đồng bào và quê hương đất nước. Chúng ta phải nhớ ơn đến nguồn cội tổ tiên, ông 50
  • 37. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 bà, Cha Mẹ, nhất là nghĩa cử hiếu đạo được thể hiện qua ngày giỗ, cúng và lễ hội Vu Lan: Làm việc thiện lành đạo đức, tự thân nỗ lực tinh tấn, bố thí, cúng dàng, phát tâm ăn chay, phóng sinh v.v. Nguyện đem công đức hồi hướng cho cửu huyền thất tổ, ông bà, Cha Mẹ quá vãng cùng thập loại chúng sinh đồng được siêu thoát, Cha Mẹ hiện tiền được nhiều phước lành, cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc. Đó là ý nghĩa của việc hiếu hạnh, là tấm gương để con cháu noi theo. Như Hòa Thượng Thích Trí Quảng đã viết: “Phật giáo đã quan sát sự hiện hữu của con người và thấy được mối tương quan, tương duyên mật thiết của con người với truyền thống gia đình, với cộng đồng xã hội và thế giới siêu nhiên. Với sự thấy biết theo lý duyên sinh như thế, trong mùa Vu Lan báo hiếu, nhớ nghĩ đến công ơn của tổ tiên, ông bà, Cha Mẹ đã sinh ra mình, nuôi dưỡng, dạy dỗ mình. Chúng ta cầu nguyện cho tất cả người thân không còn hiện hữu được vãng sinh thế giới Phật. Ngoài ra chúng ta cũng cầu nguyện cho cộng đồng xã hội được tốt đẹp, vì đất nước có thịnh vượng, thanh bình thì chúng ta mới có thể sống an vui” [48, tr. 7]. Mùa Vu Lan báo ân báo hiếu sẽ nhắc nhở những người con Phật nói riêng và tất cả mọi người nói chung. Hãy hiếu thảo phụng sự Cha Mẹ để làm tròn hiếu hạnh và tâm hạnh. Vì: Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh Hiếu là hạnh Phật. Vậy chúng ta hãy kịp thời hiếu dưỡng Cha Mẹ lúc còn tại thế, để khỏi hối hận nối tiếc khi Cha Mẹ qua đời như lời than thở của Thầy Tử Lộ. Ngoài việc phụng dưỡng Cha Mẹ còn phải khuyên Cha Mẹ bỏ ác làm lành và an trú đời sống Cha Mẹ vào chính pháp. Có như vậy, mới gọi là báo đáp thâm ân của Cha Mẹ được vẹn toàn cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần trong hiện tại và tương lai, đúng đắn nhất theo quan điểm Phật giáo. Tóm lại: Đức Phật đã dạy mô tả công ơn Cha Mẹ lớn lao như trời bể không có gì sánh bằng được. Công ơn Cha Mẹ nếu trong một đời này thôi thì cũng không bao giờ kể hết huống chi là công ơn từ vô lượng kiếp luân hồi trong sinh tử cho đến ngày nay. Vì vậy việc hiếu nghĩa đối với Cha Mẹ mình là việc làm cần thiết nhất, quan trọng nhất của con đường tự tu thân là việc làm đầu tiên và nấc thang đầu tiên 51
  • 38. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 của con người học đạo muốn cầu giải thoát. Người đắc đạo được Thánh quả cũng là người đã thực hiện tròn đầy “Hiếu đạo” với Cha Mẹ mình, bởi vì “Hiếu kính phụ mẫu, hiếu danh vi giới…” Bởi vậy Đức Phật khuyên tất cả các hàng đệ tử, cũng như Ngài: “Hiếu đạo là việc làm không thể bỏ qua”. Vậy mỗi chúng ta muốn báo hiếu Cha Mẹ không gì hơn là học cách báo hiếu Cha Mẹ theo tinh thần Phật giáo. 2.3. Các biểu hiện cụ thể về ân Cha mẹ và giá trị đạo đức Phật giáo trong xã hội ngày nay 2.3.1. Ân Cha mẹ trong Phật giáo Như chúng ta đã biết, công ơn của Cha mẹ đối với con cái như trời cao, biển cả. Nếu đem sánh với tất cả ơn trong đời, không ơn nào bằng. Trọn kiếp, dù nát thân này cũng chưa đền đáp được. Phật dạy: "Thiên Kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên" Nghĩa là: "Ngàn quyển Kinh vạn quyển sách đều lấy chữ hiếu làm đầu" và “Hiếu tâm tức Phật tâm, hiếu hạnh tức Phật hạnh”. Như vậy, bổn phận của người con đối với Cha mẹ như thế nào? Kinh Trường Bộ, tập II có ghi nhận như sau: "Được nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại Cha mẹ, tôi sẽ làm bổn phận đối với Cha mẹ, tôi sẽ giữ gìn gia đình và truyền thống, tôi bảo vệ tài sản thừa tự, tôi sẽ làm tang lễ khi Cha mẹ qua đời" [17, tr. 542]. Thứ nhất: Những bổn phận báo hiếu của người con đối với Cha Mẹ Bổn phận làm con phải lo cho vẹn tròn chữ hiếu, trong Kinh Đỉnh lễ sáu phương (Trường Bộ I) gọi mối liên hệ giữa Cha Mẹ và con cái là mối liên hệ thiêng liêng đáng được tôn kính, đỉnh lễ. Người con có bổn phận đáp đền bằng những việc làm thiết thực như: Vâng lời Cha Mẹ, giúp đỡ Cha Mẹ khi cần Chăm chỉ học hành, siêng năng làm việc Giữ gìn gia phong Phụng dưỡng Cha Mẹ lúc tuổi già Lo đám tang đúng phong tục khi Cha Mẹ mất Khích lệ, giới thiệu đạo giải thoát chính kiến đến với Cha Mẹ… 52
  • 39. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Đây là công việc quan trọng hơn cả, đó là giúp Cha Mẹ hiểu đạo, có chính kiến, chính tín với Tam Bảo. Đức Phật dạy: Ta thấy người thế gian chưa được gọi là Hiếu. Chỉ có người nào làm được như vậy mới Hiếu. Đó là làm cho Cha Mẹ bỏ ác làm thiện, thụ trì ngũ giới, quy y Tam Bảo, hằng biết luật pháp của quốc gia, hằng đêm phụng thờ thì người ấy mới báo được công ơn vô lượng sâu nặng của Cha Mẹ nuôi dưỡng ta nên người, thành người trung hiếu lưỡng toàn. Trong Tăng Chi Bộ kinh Đức Phật đề cập đến bốn trách nhiệm của người con phải làm để hướng dẫn Cha Mẹ sống theo chính pháp đó là: “Nếu Cha Mẹ không có niềm tin, thì khuyến khích Cha Mẹ phát tâm tin tưởng Tam Bảo; Nếu Cha Mẹ làm ác, khuyên Cha Mẹ về đường thiện; Nếu Cha Mẹ xan tham, khuyên Cha Mẹ phát tâm bố thí; Nếu Cha Mẹ theo tà kiến, khuyên Cha Mẹ theo chính kiến” [18, tr.59]. Khi Cha Mẹ đã kính tin Tam Bảo và sống đúng chính pháp, thì những buồn phiền sẽ lắng yên, tâm hồn được nhẹ nhàng thảnh thơi, vì Phật Pháp có khả năng rửa sạch trần lao nên Cha Mẹ sẽ nhận ra những việc cần thiết cho quãng đời còn lại. Có như vậy chúng ta mới mong trả được công ơn biển trời của Cha Mẹ. Như vậy mỗi người con chúng ta dù xuất gia hay tại gia tập phúc đức và hồi hướng phúc đức cho Cha Mẹ việc làm Hiếu Hạnh chính đáng và cao cả hơn hết. Muốn cho Cha Mẹ mình theo chính kiến thì sự nỗ lực tu tập tự thân là việc làm không thể thiếu của người đệ tử Phật, vì phải làm như vậy thì Cha Mẹ mới có được đức tin Tam Bảo, tin nhân quả, hiểu biết về tội phúc. Nếu vì hiếu đạo mà làm những điều phi pháp do Cha Mẹ sai bảo thì đó là việc làm trái với chính đạo và Đức Phật hoàn toàn không chấp nhận. Chính vì thế mà đạo Phật rất nhân bản đã để con người nằm đúng vị trí của mình. Chúng ta không thể có kết quả tốt trong khi hiếu thuận với Cha Mẹ nhưng mang tà kiến đối với việc vâng lời sai bảo, hoặc làm việc gì dù xuất phát từ tâm hiếu thuận mà làm các việc ác thì quả báo cũng không tránh khỏi, chúng ta không thể nhân danh chữ Hiếu để xóa sạch mọi hành vi bất thiện. Cho nên tâm hiếu thuận 53
  • 40. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 ấy yêu cầu phải có trí tuệ, nếu không có trí tuệ thì những hành động đó sẽ không đem lại hạnh phúc cho Cha Mẹ cũng như cho mình trong hiện tại và vị lai. Như vậy bổn phận báo hiếu của người con quan trọng nhất giới thiệu con đường giải thoát đến với Cha Mẹ, nếu không làm tròn bổn phận này thì bị Đức Phật xem là bất hiếu. Theo Phật giáo bất hiếu là việc làm cực ác, và ngược lại có hiếu tức là vua trong tất cả các việc thiện. Thứ hai: Phúc báo của người con có hiếu Kinh Hạnh Phúc - Nam tông ghi: “Phụng dưỡng cha và mẹ là vận may tối thượng” Chẳng những xem hiếu hạnh là quan trọng Đức Phật còn dạy Hiếu Hạnh là đức cao cả nhất của con người. Trong loài người, tối thắng nhất là người có hiếu. Và những gia đình có con cái hiếu thảo gia đình ấy được xem ngang bằng với Phạm Thiên. Không những chỉ hiếu thảo với Cha Mẹ trong gia đình, mà còn phải hiếu thuận với tất cả những người xung quanh mình nữa. Báo hiếu không chỉ là một trách nhiệm mà còn chính là nghĩa sống tích cực cho một cuộc đời lành mạnh, Hiếu hạnh là việc làm hiệu quả nhất, thiết thực trong lộ trình tìm cầu hạnh phúc của loài người. Kinh Đại tộc - Bắc truyền ghi: “Gặp thời không có Phật khéo thờ Cha Mẹ chính là Phật”. Như thế phúc báu của việc phụng thờ Cha Mẹ được xem như tương đương với việc cúng dàng chư Phật, có kết quả vô cùng lớn lao, đó là người con hiếu, xem việc báo hiếu là việc may mắn hơn hết, không có một may mắn nào có thể lớn hơn nữa. Người nào muốn đạt đến cứu kính Phật đạo, người ấy phải tuyệt đối hiếu kính với Cha Mẹ. Tóm lại: Việc báo hiếu không chỉ là hành vi tri ân và báo ân Cha Mẹ mà nó còn là mục tiêu nhằm đến ước nguyện lớn lao của tự thân cho mỗi chúng ta về phương diện thăng hoa cho cuộc đời tu tập của riêng mình. Từ đó không chỉ đem lại hạnh phúc cho Cha Mẹ cho riêng mình mà còn đem lại lợi ích cho bao nhiêu người xung quanh và rộng ra cho cả nhân loại. Thứ ba: Quả lành đối với người con có hiếu 54
  • 41. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Nếu người con hiếu hạnh biết hiếu kính lễ Tam Bảo, tán thán chư Phật, tôn trọng Cha mẹ thì đồng nghĩa với việc làm thiện. Đoạn Kinh trong Mục Liên Sám Pháp có dạy: "Lễkính chư Phật, khen ngợi Như Lai, học theo pháp Phật, tùy thuận chúng sinh, khuyên người hiếu hạnh, phát tâm báo ân. Đó chính là thiện” [54, tr. 65-66]. Trong Kinh Tương Ưng có đề cập một vị Thiên chủ Sakka khi còn làm người, vị này chấp trì và thực hành bảy giới cấm túc nên được làm chủ và bậc chân nhân của ba mươi ba cảnh trời "thế nào là bảy? Cho đến trọn đời tôi không hiếu dưỡng Cha mẹ, kính trọng bậc gia trưởng, nói lời nhu hòa, không nói lời hai lưỡi, với tâm ly cấu uế và xan tham..." [22, tr. 510]. Những người con nào tuyệt đối thể hiện sự hiếu kính đối với Cha mẹ sẽ chiêu cảm đến đất trời. Khi gặp các nạn dữ được Long Thần hộ pháp gia hộ thoát khỏi các nạn khổ. Trong Kinh Hạnh Phúc đã ghi: "Người con trí hiếu dù gặp đại nạn như tai trời ách nước, hồng thủy, địa chấn sẽ được thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì được trọn hưởng gia tài, không bị cảnh chướng duyên... Nếu nghèo thì đời sống trong sạch, thanh nhàn, trời người yêu thương, danh thơm bay khắp, không nợ nần khổ sở, thiếu bệnh, thiếu tật... Trong hiện tại hằng được các bậc hiền trí ngợi khen, kết giao thần thiện, sau khi chết được sinh thiên” [19, tr. 21]. “Nếu có trai, gái theo Mẹ dạy Hiếu thuận nhan sắc không dám trái. Hết thảy tai nạn đều tiêu trừ Chư Thiên ủng hộ thường an lạc” [20, tr. 113]. Ơn Cha mẹ sánh với tất cả ơn trong đời chúng ta có ơn nào bằng? Nếu ơn ấy chúng ta còn quên thì các ơn khác sẽ quên đi. Ơn Cha mẹ to lớn như vậy, muốn đền đáp cũng không thể được. Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đức Thế Tôn có dạy: "Lại nếu có người vai phải cõng Cha, vai trái cõng Mẹ đến ngàn vạn năm, lo y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men trị bệnh, dù Cha mẹ tiểu tiện ở trên vai, người ấy vẫn chẳng thể báo ân đựơc. Tỷ Khiêu nên biết, Cha mẹ ân nặng, bồng ẵm, nuôi nấng, tùy lúc gìn giữ chẳng lỡ thời tiết như được thấy mặt trời, mặt trăng. Dùng phương tiện này, 55
  • 42. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 biết ân này khó báo. Thế nên các Tỷ Khiêu cúng dàng Cha mẹ, thường nên hiếu thuận, chẳng bỏ lỡ thời tiết” [21, tr. 349]. Với những ai có tâm kính trọng Tam Bảo, hiếu thảo với Cha mẹ sẽ được công đức và quả lành. Phẩm Thiện Trí Thức trong Kinh A Hàm Phật dạy: “Có hai pháp dành cho người phàm phu, được công đức lớn, thành quả báo lớn, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi. Đó là cúng dàng Cha và Mẹ” [21, tr. 21]. Trong vô lượng kiếp, Đức Phật đã từng cúng dàng đến các bậc Sư trưởng, cha mẹ các loại hương hoa, các thứ dầu thơm và cung kính lễ bái nên được trang nghiêm thân tướng. Người nào biết hiếu kính Cha mẹ, do công đức đó sẽ được sinh trong dòng tộc cao quý. Thế Tôn đã dạy trong Kinh Tăng Nhất A Hàm như sau: "Có hai pháp khiến người sinh trong nhà hào tộc. Thế nào là hai pháp? Cung kính Cha mẹ, anh em, thân thuộc, đem của cải nhà mình bố thí" [21, tr. 145]. Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có dạy: "Hiếu thuận với Cha mẹ thời những điều ác về thế gian dứt, mà những điều lành về thế gian tăng trưởng. Hiếu thuận với Sư Tăng, Tam Bảo thời những điều ác của thế gian và xuất thế gian dứt diệt, những điều lành về thế gian và xuất thế gian phát sinh cho đến viên mãn thành tựu. Vì ý nghĩa ấy nên hiếu thuận là cốt tủy của Bồ Tát giới là trí đạo” [49, tr. 113]. Như Kinh Hiền Ngu đã ghi: Ta trong nhiều kiếp quá khứ, nhờ từ tâm hiếu thuận cúng dường Cha mẹ. Do công đức đó, nên sinh lên các tầng trời làm Thiên Đế xuống nhân gian thì làm Thánh Vương. Kinh Quán Vô Lượng Thọ có ghi: "Người muốn sinh sang Cực Lạc phải tu ba phúc: Một là: Hiếu thuận với Cha mẹ, phụng thờ Sư trưởng, có tâm từ bi không sát sinh, tu mười nghiệp thiện, hai là: Thụ trì Tam quy, giữ đầy đủ mọi giới, không phạm uy nghi, ba là: Phát Bồ đề tâm, vững tin nhân quả..." [25, tr. 22]. Nhờ lòng hiếu thảo mà có thể giải nguy cho đất nước, không bị sống nô lệ. Có câu chuyện như sau: Một hôm vua truyền lệnh: Không một gia đình nào được phép nuôi người già trong nhà, nếu không tuân theo sẽ bị trừng phạt. Người con khi nghĩ đến công ơn, sự hy sinh cao cả của Cha đã nuôi khôn lớn, chưa hề báo đáp nên rất đau lòng trước thảm cảnh khó xử ấy. Người Cha bèn an ủi: Con đừng buồn, đó 56
  • 43. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 là mệnh lệnh của vua, thần dân phải tuân theo mới gọi là trung. Có lẽ vua ỷ lại mình đang trẻ tuổi, có sức mạnh, tài giỏi, xem các vị lão thần vô dụng, không giúp ích gì, nên ban hành đạo luật đó. Vua quên rằng, một ngày nào đó vua cũng phải già vì định luật vô thường chẳng từ một ai. Cảnh già đâu nể bậc vua quan Đến tuổi như cây phải cỗi tàn Chẳng kể giàu sang cùng thế lực Ai ai tuổi trẻ có thời gian Hơn nữa, vua còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, làm sao an dân trị quốc bình thiên hạ? Chắc chắn quốc gia sẽ gặp đại nạn. Con nên đưa Cha vào rừng sống cho êm chuyện, theo đạo luật của vua ban. Người con thưa: Điều đó không thể được và con sẽ bằng lòng với hình phạt của triều đình. Người con liền đào một cái hầm bên dưới sàn nhà, để Cha sống dưới đó, sớm hôm lo phụng dưỡng săn sóc. Nhờ vậy người Cha có thời gian an dưỡng và tu tập. Lúc bấy giờ, vua nước lân cận nghe vua nước Ba La Nại đã đào thải các vị thần, muốn đem quân chinh phục. Vua hội họp các vị cận thần, bàn việc xâm chiêm nước Ba La Nại. Khi đó, có một vị đại thần nói rằng: Xưa nay nước Ba La Nại từng nổi danh có các vị lão thành tài ba lỗi lạc trong vấn đề an dân trị nước. Thần nghĩ trong việc này có nhiều nghi vấn, cần phải xem xét kỹ rồi mới hành động. Ông đề nghị, trước tiên Thánh thượng thăm dò bằng cách gửi các chiếu thư xin giải đáp. Nếu nước Ba La Nại giải đáp không xong, khi đó có thể đem binh đánh chiếm. Không lâu, nước Ba La Nại tiếp nhận chiếu thư của nước lân cận, với bốn câu hỏi có nội dung là: "Vật sở hữu quý nhất của con người là gì? Điều gì, nếu thực hành đúng sẽ đem lại hạnh phúc? Hương vị nào ngọt ngào hơn tất cả? Sống như thế nào gọi là cao thượng nhất?” [3, tr.22] Bấy giờ, vua nước Ba La Nại triệu tập các đại thần trẻ tuổi để giải đáp nhưng không một ai có thể trả lời. Khi đó, các vị tâu lên vua là chỉ có các "đại lão thần" 57
  • 44. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 mới có thể giải đáp. Vua lại thông báo trong nước nếu thần dân nào trả lời được sẽ trọng thưởng. Sau cùng, có chàng trai đến xin giải đáp bằng bốn câu trả lời sau đây: "Vật sở hữu quý nhất của con người là niềm tin Giáo Pháp nếu thực hành đúng, sẽ đem lại hạnh phúc. Đức hạnh chân thật quả là hương vị ngọt ngào hơn tất cả. Sống với trí tuệ xem là cao thượng nhất" [50, tr.214] Khi chàng trai ấy trả lời xong các câu hỏi, mọi người đều vui mừng, hoan hô phấn khởi. Vua liền triệu chàng trai ấy đến hỏi: Sao khanh biết những câu hỏi này mà giải đáp? Chàng trai đáp ngay: Hạ thần không biết gì, đó là do Cha hạ thần chỉ dạy. Chàng trai liền thú tội là không tuân theo sắc lệnh vua ban, lén giấu Cha dưới hầm trong nhà để phụng dưỡng, hầu hạ. Đến lúc ấy vua mới hối hận, thu hồi đạo luật đã ban. Các nước lân cận không còn cơ hội có ý xâm lấn nữa. Qua chuyện, chúng ta thấy nhờ lòng hiếu thảo của người con nên cứu nguy cho đất nước, cho dân tộc, đem lại sự thanh bình, an lạc cho tất cả mọi người. Thứ tư: Quả dữ đối với người con không hiếu hạnh Thực tế, chúng ta thấy hiếu đạo trên mặt lý thuyết thì dễ, nhưng về mặt thực hành rất khó khăn. Trong Kinh Tương Ưng, Phật dạy: “Ở đời, số chúng sinh hiếu thảo với Cha mẹ và thuận theo đạo lý thế gian thì quá ít. Ngược lại, số chúng sinh không hiếu thảo với Cha mẹ, không thuận theo đạo lý thế gian thì quá nhiều” [22, tr. 675]. Đức Phật so sánh hình ảnh ấy trong Tương Ưng Bộ Kinh như Thế Tôn lấy ít đất trên đầu ngón tay và bảo các Thầy Tỷ Khiêu: Các ngươi nghĩ thế nào, đất trong tay Như Lai nhiều hay đất trong tay đại địa nhiều. Các vị Tỷ Khiêu đáp: Đất trong tay Như Lai quá ít so với đất trong đại địa. Cũng vậy, số chúng sinh hiếu kính với Cha mẹ quá ít, giống như đất trong tay Như Lai, còn số chúng sinh không tôn trọng Cha mẹ như đất trong đại địa. Phật dạy trong Tăng Nhất A Hàm: "Có hai pháp khiến người sinh trong nhà bần tiện. Thế nào là hai pháp? Chẳng hiếu đễ với Cha mẹ, các bậc sư trưởng, cũng không thừa sự người hơn mình” [21, tr. 309]. 58
  • 45. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Nếu ở đời một người không hiếu kính với Cha mẹ thì người đó không thể hoàn thành bất cứ đạo lý nào. Người không hiếu kính với Cha mẹ, bạn bè, anh em, xa lánh họ hàng thì người đời chán ghét, thiên thần không ủng hộ. Họ sẽ lãnh những quả báo xấu ác trong hiện tại, khi chết đọa vào địa ngục vô gián chịu khổ đau. Những người con bất hiếu phải lãnh chịu quả báo như chàng trai Met-Tra không vâng lời Mẹ vượt biển đi buôn. Mẹ vì thương con cản ngăn, khẩn thiết van xin nhưng anh ta không mảy may xúc động, nhẫn tâm xô ngã Mẹ, bước qua đầu Mẹ, thản nhiên đi thẳng xuống thuyền không quay lại. Do tội bất hiếu đó phải thọ lãnh quả báo trôi nổi trên biển, sau đó nghiệp dắt dẫn vào tù ngục để đội vòng lửa sắt nóng, chịu cực hình trong muôn kiếp. Trong mười bốn điều răn của Phật thì lời răn thứ sáu đề cập về tội lỗi lớn nhất là tội bất hiếu. Điều này được Trụ Vũ diễn thành thơ. "Tội lỗi lớn nhất luân thường Là tội lớn nhất phụ ơn cao dày" [59, tr. 17]. Những người con nào không biết kính trọng Tam Bảo, Cha mẹ... Đó chính là đồng nghĩa với sự làm ác. Kinh Mục Liên Sám Pháp đã mô tả: “Những ai xa lánh những bạn lành, phỉ báng Tam Bảo, không tin tội phúc... Không sợ báo ứng, không chịu làm thiện, điều ác chẳng từ, bất hiếu Cha mẹ, không trọng họ hàng... Đó chính là ác” [54, tr. 66]. Những quả báo dành cho những ai không hiếu kính với Cha mẹ phải đọa vào cảnh khổ được thể hiện qua Kinh Tâm Địa Quán như sau: "Nếu có con trai con gái nào bội ân, không hiếu thuận với Cha mẹ làm cho Cha mẹ sinh tâm oán niệm, mà Cha mẹ bực bội nói ra một lời nói ác, tức thời con phải sa đọa theo lời nói ấy hoặc vào địa ngục, hay ngạ quỷ, súc sinh” [27, tr. 90]. Vào mùa Vu Lan báo ân, chúng ta hằng đêm thường tụng niệm bài Kinh Báo Hiếu, Phật dạy tội những người con bất hiếu phải gánh chịu những quả báo khổ đau sau đây: "Trong năm đại tội kể ra Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay 59
  • 46. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Sau khi chết bị đày vào ngục Ngũ vô gián cũng gọi A tỳ Ngục này trong núi Thiết Vi Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề Trong ngục này hằng ngày lửa cháy Đốt tội nhân hết thảy thành than Có lò nấu sắt cho tan Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình..." [31, tr.113]. Theo Kinh Vô Lượng Thọ có năm sự dữ lớn: "Nếu như người nào trên thế gian, chẳng nghĩ tu thiện, chỉ xúi giục nhau, làm những việc ác, phá hại người hiền, chẳng hiếu Cha mẹ, khinh bậc Sư trưởng... là thuộc về sự dữ thứ bốn” [31, tr.113]. Còn đối với người thuộc về sự dữ thứ năm: Người thường dựa dẫm lười biếng, chẳng chịu làm lành, sửa mình tu tập. Cha mẹ dạy bảo, trợn mắt giận dữ, nói năng chẳng hòa, trái ngược ngang bướng... Câu chuyện Trái tim người Mẹ hiền kể rằng: Xưa có chàng CôZắc vì yêu cô nữ Ốc-Xa-Na, muốn cưới nàng làm vợ. Nàng đòi sính lễ với nàng phải là trái tim người Mẹ. Không ngần ngại, vì tình yêu thúc giục, chàng đã giết Mẹ rồi lấy trái tim mang đến cho nàng. Do quá gấp gáp nên chàng vấp ngã văng xa, nhưng chàng đã nghe tiếng nói ngọt ngào đầm ấm quen thuộc của Mẹ hỏi: Con có đau không? Chúng ta quá xúc động khi nghe câu chuyện trên. Tình thương bao dung độ lượng xuất phát từ trái tim người Mẹ đối với con như thế nào? Mẹ bằng lòng hy sinh tất cả, không giận hờn, miễn con được hạnh phúc. Trên đời này, chỉ có Mẹ và trái tim cao quý của Mẹ mới tha thứ cho đứa con bất hiếu kia. Đường dài chân mỏi mắt hoa Vừa lên thềm cửa chân sa ngã nhào Tim Mẹ đập ứa máu đào Mà còn hỏi nhỏ nơi nào con đau? Xã hội hiện nay khác hơn xưa, phần lớn con cái tự quyết định, ít vâng lời và không hiếu thảo với Cha mẹ, nên sinh những tai họa lớn mà trong Lá Thơ Tịnh Độ 60
  • 47. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 đã nói: "Đời này phiêu bạc, xã hội rối loạn, tai trời họa người phát sinh ra chồng chất, muốn mưu tính vãn cứu, thì hết thảy mọi người phải dốc lòng luân thường, làm tròn bổn phận, có hiếu với Cha mẹ, hiền từ với con cái..." [15, tr. 257] 2.3.2. Giá trị của đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội hiện nay Đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước, đạo đức Phật giáo đã góp phần tạo nên truyền thống văn hóa thực sự giàu bản sắc. Ngày nay, đạo đức Phật giáo đã có vị trí vững chắc trong nền văn hóa dân tộc - hiện đại. Phật giáo xây dựng hệ thống đạo đức trên cơ sở hệ thống giáo lý, đó là mối quan hệ giữa giới, định, tuệ để đi đến giải thoát và giải thoát tri kiến, trong đó giới có vai trò làm nền tảng cho việc giải thoát. Đạo đức Phật giáo bao gồm các giới cùng các chuẩn mực và các phạm trù có liên quan với nhau một cách chặt chẽ. Phật giáo xây dựng một hệ thống đạo đức hoàn chỉnh từ nhận thức, lý luận đến thực hành và việc áp dụng nó để xây dựng một nếp sống tốt đẹp. Bên cạnh đó Phật giáo còn xây dựng mẫu người đạo đức đó là con người từ bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha mà thâu tóm là đứng vững trên hai chân: Từ bi và trí tuệ. Đạo đức Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với đạo đức người Việt. Những phạm trù cơ bản của đạo đức Phật giáo đã ảnh hưởng khá sâu đậm vào đời sống người Việt. Ngày nay, với sự chấn hưng của Phật giáo Việt Nam, đạo đức Phật giáo sẽ góp phần hết sức to lớn vào việc xây dựng một xã hội hài hòa, phát triển. Đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống của người Việt Nam: Đạo Phật đồng hành với dân tộc Việt Nam, từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay đã 2000 năm lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản văn hóa dân tộc. Trong quá trình phát triển tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người mà còn có vai trò góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Ngoài những điểm phù hợp với tình cảm đạo đức của con người, đạo đức Phật giáo còn thực hiện thông qua tình cảm, tín ngưỡng, niềm tin và giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức Phật giáo được người Việt tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của Phật giáo, người Việt đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày thêm tốt đẹp. 61
  • 48. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Đạo đức Phật giáo thông qua những giáo luật, giáo lý và các giá trị, chuẩn mực đã đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đời sống của người Việt Nam không chỉ là giáo lý qua kinh kệ, sách vở mà đã trở thành phong tục, cách sống của dân tộc, của mọi gia đình. Người Việt Nam truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, phụng dưỡng cha mẹ, tri ân những người có công với cộng đồng, làm điều thiện… đó cũng chính là những điều luân lý đạo đức cụ thể mà Phật giáo đã truyền dạy. Đạo đức Phật giáo đã thực sự đi vào cuộc sống, đi vào tâm linh mỗi con người. Trong suốt chiều dài của lịch sử, đạo đức Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của dân tộc, những nhân tố quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm, chuẩn mực, hệ giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại. Đạo đức Phật giáo với kinh tế trong bối cảnh thị trường hiện nay: Trong giáo lý “Bát chính đạo” đức Phật có đề cập đến “chính mệnh” sinh sống bằng nghề nghiệp chân chính. Người khuyên mọi người kiếm sống bằng chính sức lao động và tiền vốn của mình, trí tuệ của mình chứ không được buôn bán gian lận, buôn bán hàng quốc cấm và các loại hàng hóa có hại cho sức khỏe con người và xã hội. Trong cuộc sống mỗi người phải lao động làm việc để tạo ra nguồn của cải vật chất nuôi sống mình và gia đình. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ngày nay, đạo đức Phật giáo góp phần không nhỏ trong việc giáo dục con người, hướng con người tới những điều thiện, từ đó giảm bớt thiệt hại cho người tiêu dùng và đặc biệt là những nguy hiểm chết người. Đây chính là mặt tích cực của đạo đức Phật giáo giúp con người và nhân loại có cuộc sống an lạc hạnh phúc. “Chính mệnh” trong Bát chính đạo của Phật giáo còn có nghĩa là biết làm chủ cuộc sống, không lãng phí, không bủn xỉn, biết làm phúc và cúng dàng. Biết chăm lo cuộc sống của người thân, quyến thuộc, biết tích lũy cho đời nay và chuẩn bị cho đời sau. Đức Phật dạy rằng các cư sĩ sống bình thường ở gia đình có 4 điều lạc thú: Một là được hưởng cảm giác an toàn do có của cải và cơ sở kinh tế có được bằng phương pháp chính đáng; Hai là có thể khảng khái sử dụng của cải ấy cho mình, cho người nhà và cho bạn hữu, đồng thời dùng nó để làm 62
  • 49. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 nhiều việc từ thiện; Ba là không bị khổ sở vì nợ nần; Bốn là có thể sống cuộc đời thanh tịnh, không lỗi lầm. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cần coi trọng việc xây dựng hoàn thiện đạo đức nhằm phát triển con người một cách toàn diện. Nền đạo đức mà chúng ta đang xây dựng là sự kết tinh, kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của nhân loại, của dân tộc, trong đó có những giá trị đạo đức Phật giáo. Đạo đức Phật giáo với văn hóa: Thực tế cho thấy Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ XX đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho nền văn hóa dân tộc - hiện đại. Trong triển vọng phát triển chung của Tôn giáo thế giới, Phật giáo Việt Nam cũng đồng hành hướng tới giải quyết những nhiệm vụ cơ bản đặt ra với con người hiện đại, đặc biệt ở bước đi tương đồng với những quốc gia lân bang cùng điều kiện và hoàn cảnh. Triết lý của Phật giáo về Từ bi, về tình thương yêu rất phù hợp với truyền thống giàu lòng nhân ái vốn có của người Việt: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”; “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”; “Thương người như thể thương thân”… Sự kết hợp những nét độc đáo trong phương pháp tư duy, trong văn học, nghệ thuật của người Việt Nam. Những giá trị, khuyến thiện, hướng thiện không chỉ phát huy tác dụng trong hàng ngũ tín đồ mà còn ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống nhân dân, góp phần hình thành nên những quan niệm sống giàu tính nhân văn sâu sắc. Đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước, đạo đức Phật giáo đã góp phần tạo nên truyền thống văn hóa thực sự giàu bản sắc. Ngày nay, đạo đức Phật giáo đã có vị trí vững chắc trong nền văn hóa dân tộc - hiện đại. Một thời đại mới đang mở rộng ra cùng với những thách thức của hội nhập và phát triển, lợi ích cá nhân và cộng đồng, phẩm chất vị tha và cạnh tranh thị trường đòi hỏi sự năng động của đạo đức Phật giáo, yêu cầu phát huy và dung hợp những giá trị nhân bản bền vững của Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc - hiện đại. Có thể khẳng định vị trí vững chắc của đạo đức Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc. 63
  • 50. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Đạo đức Phật giáo với xã hội Việt Nam hiện nay: Đức Phật dạy từ việc lớn như quốc gia, chính sự đến việc nhỏ như hòa khí trong gia đình. Tư tưởng Từ bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạn của nhà Phật vẫn đang được nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung tiếp thu và phát huy trong đời sống xã hội. Một số quy tắc của đạo đức Phật giáo giữ gìn tam quy, ngũ giới, thập thiện,… Có những nét tương đồng với các quy tắc, chuẩn mực của nền đạo đức xã hội vẫn đang được nhiều người tin theo và khuyến khích phát huy. Đó là những quy tắc sống mà xã hội nào cũng rất cần đến để duy trì một nền đạo đức, một nếp sống lành mạnh và hạnh phúc cho con người. Cùng với thời gian, Phật giáo Việt Nam đã điểm vào trang lịch sử của mình những nét vàng son. Những chuẩn mực của đạo đức Phật giáo vẫn đang có những đóng góp cho việc duy trì một nền đạo đức xã hội, khơi dậy truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tương thân tương ái trong cộng đồng, xây dựng con người Việt Nam đạo đức và văn hóa tốt đẹp. Đạo đức Phật giáo với việc xây dựng đạo đức, lối sống của người Việt Nam: Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, đạo đức Phật giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức, hướng con người đến lối sống, vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh, đạo đức Phật giáo phù hợp với đạo đức, lẽ sống của con người Việt Nam và nó đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra. Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hòa đồng liên kết giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, lòng từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững tinh thần lá lành đùm lá rách của dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con người giảm bớt cái tôi vị kỷ… Những giá trị tích cực đó của đạo đức Phật giáo càng được nhân lên với những hành động cụ thể, như kẻ đói được cho ăn, kẻ rách được cho mặc, người ốm đau bệnh tật 64
  • 51. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 được chăm sóc… Đạo đức Phật giáo khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu: “Hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, “muôn việc ở thế gian không gì hơn công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”. Thêm vào đó, những không gian chùa chiền của Phật giáo luôn thu hút con người tìm về chốn tĩnh tâm, nơi chiêm nghiệm và cảm nhận…Tất cả những điều đó là những giá trị đạo đức tích cực, thiết thực góp phần giáo hóa con người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước cám dỗ của cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân bản, coi trọng thiên nhiên… Ngày nay với phương châm Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội, đạo đức Phật giáo đã góp phần tích cực vào các phong trào phát triển xã hội, bảo vệ môi trường. Đặc biệt công tác từ thiện với tinh thần cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật, hòa cùng truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc, tăng ni phật tử đã tổ chức cứu trợ cho đồng bào bị thiên tai bão lụt, cho những vùng quê nghèo khó, cho những mảnh đời bất hạnh…Những hoạt động từ thiện đó của đạo Phật cùng nhằm điều chỉnh tính cách, lối sống, góp phần hình thành nhân cách của một con người có ích cho xã hội. Tiểu kết chương 2 Đối với đạo Phật, thực hành hiếu thảo là con đường giải thoát của chính pháp, là con đường của người Phật tử. Không hiếu thảo với cha mẹ thì không thể gọi là một người Phật tử chân chính được. Bởi vì người Phật tử thì phải thực hành các thiện pháp mà trong kinh “Nhẫn nhục” nói rằng: “Điều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu”. Vì vậy, báo hiếu là bản chất của người Phật tử và đã trở thành truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam nói riêng, Á Đông nói chung. Không có gì hạnh phúc, sung sướng khi còn có Mẹ, có Cha. Người con phải biết trân quý và kính dường Mẹ Cha khi họ đang còn sống, đừng để đến lúc Mẹ Cha qua đời mới bày lễ lược, cầu cúng cho thật lớn, khóc cho thật nhiều . Đây là những lời Cha mẹ dạy dỗ các con để duy trì nếp sống lễ giáo, đạo đức của Gia đình và 65
  • 52. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 truyền thống Dân tộc mà chính Đức Phật vẫn quan tâm và luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải biết trân quý, giữ gìn như những bảo vật giá trị nhất trong cuộc đời. Mặt khác, theo đạo Phật quan niệm tất cả chúng sinh là Cha mẹ của mình. Ngoài việc báo đáp thâm ân Cha mẹ của mình hiện nay, người Phật tử còn có nhiệm vụ báo hiếu cho Cha mẹ nhiều đời của mình bằng phương thức gián tiếp. Tất cả mọi người ai cũng có trách nhiệm truyền bá tư tưởng đạo Hiếu để cho những người con học tập và thực hành phương pháp báo hiếu đúng chính pháp, đem đến lợi ích cho tất cả những người Cha mẹ khác trong xã hội sẽ trở thành một nền tảng đạo đức cơ bản cho con người, tâm hiếu là một tâm lý có tính cách văn minh, văn hoá. Truyền bá đạo hiếu sẽ tạo nên một truyền thống tốt đẹp, từ đó xã hội có điều kiện xây dựng hạnh phúc cho con người ngày càng tiến bộ và tốt đẹp hơn. Người người hạnh phúc tốt đẹp, nhà nhà an lạc, thế giới hòa bình thịnh trị. 66
  • 53. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Chương 3 Ý NGHĨA CHỮ HIẾU CỦA PHẬT GIÁO TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY